Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

TIẾN TRÌNH TU CHỨNG PHẬT ĐẠO



Tiến trình tu chứng theo Bồ tát đạo, hay Đại thừa, là một con đường tu học sâu rộng và viên mãn trong Phật giáo, nhằm mục đích giác ngộ hoàn toàn và cứu độ tất cả chúng sinh.

Dưới đây là các khía cạnh chính của tiến trình này dựa trên các kiến thức mà Quảng Kiến đã học hỏi trong 15 năm nghiên cứu Phật pháp:

1. Mục tiêu và Bản chất của Bồ tát đạo (Đại thừa)

  • Vượt lên Tiểu thừa và Trung thừa: Tiểu thừa và Trung thừa tập trung vào việc phá trừ "ngã chấp" để chấm dứt "phần đoạn sinh tử" và đạt "vô dư niết bàn". Tuy nhiên, các vị A la hán và Bích chi còn chấp vào "pháp chấp tướng", nghĩa là còn coi sự sinh tử, niết bàn, phiền não, giác ngộ là có thật, và còn "sở tri chướng" cùng "biến dịch sinh tử". Bồ tát đạo (Đại thừa) vượt qua những chấp trước này để đạt được giác ngộ viên mãn.
  • Phật tính sẵn có: Tất cả chúng sinh đều "bản lai cụ túc Phật tính thường trụ bất ngộ tối thượng, rộng lớn, bình đẳng với chư Phật. Vô minh là nguyên nhân che lấp bản tính này, do mê muội nhận các hình tướng giả dối của 7 đại (địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức) làm thân và tâm.

2. Phát Bồ đề tâm và Hạnh nguyện

  • Nền tảng của Phật học: Phát Bồ đề tâm là căn bản của việc học Phật, là điều khẩn cấp để tu hành và lập nguyện. Quên mất Bồ đề tâm mà tu thiện pháp bị coi là hành động của ma vương.
  • Tám sắc thái tâm nguyện: Người tu cần cứu xét tâm mình để bỏ tà, ngụy, tiểu, thiên và lấy chánh, chân, đại, viên. 
    • Tà: Tu hành vụ lợi, háo danh, ham vui hiện tại hoặc cầu vui mai sau.
    • Chánh: Không ham danh lợi, không màng vui thú, chỉ vì thoát sinh tử, chứng Bồ đề.
    • Chân: Kiên trì cầu Phật đạo, hóa độ chúng sinh, không thoái chí dù đường xa khó.
    • Ngụy: Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong bẩn ngoài sạch.
    • Đại: Giúp tất cả chúng sinh cùng thoát khỏi luân hồi.
    • Tiểu: Chỉ lo cho bản thân.
    • Thiên: Cứu khổ cho một số ít chúng sinh.
    • Viên: Thấy tất cả các pháp đều không có tướng, không có tự tính, dùng tâm vô tướng để phát nguyện và thực hành vô tướng.
  • Mười lý do phát Bồ đề tâm: Bao gồm nhớ ơn cha mẹ, sư trưởng, thí chủ, chúng sinh và sám hối nghiệp chướng để cứu độ phổ quát.
  • Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát: 10 hạnh nguyện của Đức Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát là giáo pháp Đại thừa chân thật, thực hành sẽ đạt Đạo vô thượng đại Bồ đề viên mãn.
  • Cứu khổ ban vui (Giác tha): Lý do để Tiểu thừa và Trung thừa tiến lên Đại thừa là cứu khổ ban vui. Bồ tát phải thị hiện các thân khác nhau để hóa độ chúng sinh, bởi giác ngộ hoàn toàn chỉ đạt được khi công hạnh giác tha viên mãn.

3. Các cấp độ tu hành và phương pháp

  • Giới - Định - Tuệ: Đây là ba môn học cơ bản. 
    • Giới: Trì giới thanh tịnh, không phạm các việc ác. Bồ tát giới bao gồm việc tránh các hành vi sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và ẩm tửu. Trì giới Ba-la-mật là không chấp vào người trì giới, giới được trì, thiện, ác hay chúng sinh được hóa độ.
    • Định: Thu nhiếp tâm ý yên lặng, không loạn động theo ham muốn.
    • Tuệ: Khi tâm yên tĩnh, thanh tịnh sẽ sinh ra trí tuệ chân chính để phân biệt hay dở, lợi hại, tránh mê hoặc.
  • Tiệm thứ tu hành Đại thừa (các bước tuần tự):
    1. Không ăn ngũ tân: Tránh 5 thứ rau gây dâm dục (ăn chín) và sân giận (ăn sống), vì các thiện thần không phù hộ người ăn chúng.
    2. Ăn đồ nấu chín và ăn chay: Ưu tiên đồ nấu chín, tránh đồ sống/tái. Thực hành trường chay hoặc giảm thịt để không mắc nợ máu thịt chúng sinh. Điều này giúp tâm nhẹ nhàng, giải thoát, phù hợp tu thiền định Đại thừa.
    3. Trì Đại giới Bồ Tát và Thiền định Đại thừa: Không để sáu căn nhiễm sáu trần (mắt không tham sắc, tai không tham tiếng, v.v.). Thực hành thiền định Đại thừa để tâm hoàn toàn thanh tịnh, như rửa sạch bình chứa độc tố. Khi tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt sẽ phát ra, dẫn đến chứng đắc các đạo quả Bồ tát và Phật.
  • Ba phép quán (Không quán, Giả quán, Trung đạo chính quán):
    • Không quán: Quán thân tứ đại, sáu căn, sáu trần, sáu thức là huyễn hóa, giả dối. Mục tiêu là làm cho sáu căn không bị nhiễm sáu trần, khiến các thức thanh tịnh, nhận ra cái tâm chân thật không ô nhiễm, bất động và chu biến (vô chướng ngại).
    • Giả quán: Quán các pháp tuy là huyễn hóa, giả dối nhưng vẫn có tác dụng tương đối trong việc giáo hóa chúng sinh.
    • Trung đạo chính quán: Quán cả "chỉ" (đình chỉ vọng niệm) và "quán" (thị hiện hạnh từ bi) đều là huyễn hóa. Đây là "tịch chiếu song hành", công đức và trí tuệ đều viên mãn.
  • Quán từ bi, vô thường, vô ngã: Quán chiếu sự khổ đau của chúng sinh để phát khởi lòng từ bi, sẵn sàng hy sinh để cứu giúp. Quán tâm vô thường (biết ý thức thay đổi, không thật) và pháp vô ngã (thấy các pháp không có tự tính, do đối đãi mà thành) để phá trừ thường kiến chấp có linh hồn bất diệt.
  • Tứ chánh cần và Tứ như ý túc: Bốn sự siêng năng chân chánh (ngăn ác đã sinh, không làm ác chưa sinh, làm thiện đã sinh, làm thiện chưa sinh) để giữ giới và phát triển định tuệ. Bốn chỗ nương tựa phát thần thông (dục, tinh tiến, định, quán) để cân bằng định và tuệ.

4. Vượt qua các chấp trước và tà kiến

  • Phá ngã chấp và pháp chấp: Bồ tát đạo đòi hỏi phải phá hết cả "ngã chấp tướng" (coi thân tâm giả dối là thật ngã) và "pháp chấp tướng" (chấp vào sự thật của các pháp, dù là xuất thế gian).
  • Trừ vô minh: Vô minh là nguyên nhân của mê lầm, khiến chúng sinh chấp vào bốn tướng: ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng.
  • Khắc phục tà kiến (Bệnh Chỉ, Bệnh Nhậm, Bệnh Diệt):
    • Bệnh Chỉ: Sai lầm khi cho rằng chỉ cần mặc kệ thế gian mà không làm gì, sẽ thoát khổ. Phật dạy "chỉ" là đình chỉ các việc ác hữu lậu, hữu vi để thoát luân hồi, chứ không phải mặc kệ.
    • Bệnh Nhậm: Sai lầm khi cho rằng mọi việc cứ từ từ vì đã có định đoạt của "thượng đế". Tu hành cần tinh tiến nhanh chóng khi đủ duyên.
    • Bệnh Diệt: Sai lầm khi cho rằng phải nhanh chóng diệt trừ mọi thứ trái ý. Diệt ở đây là diệt cái ác để sinh cái thiện.
  • Không ỷ lại vào Tạo hóa/Thượng đế: Phật pháp nhấn mạnh luật nhân quả trùng trùng duyên khởi, phủ nhận quan niệm về một đấng tạo hóa ban thưởng hay trừng phạt.

5. Kết quả của tiến trình tu chứng Bồ tát đạo

  • Chuyển thức thành trí: Các vị Bồ tát chuyển hóa tám thức thành bốn trí tuệ của Phật: Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí, Thành sở tác trí.
  • Đắc Đại Bồ đề và Đại Niết bàn: Khi ngã chấp và pháp chấp được trừ diệt, các chủng tính giả dối (ngoại đạo, chúng sinh, Tiểu thừa, Trung thừa thiên lệch) sẽ biến mất. Chủng tính chân thật (Như Lai chủng tính) sẽ hiện ra hoàn toàn, bao gồm Đại Bồ đề (Pháp thân thanh tịnh) và Đại Niết bàn (bản tính thường trụ, bất sinh bất diệt).
  • Vô trụ xứ Niết bàn: Dù thị hiện thân để giáo hóa chúng sinh ở bất cứ đâu (ví dụ Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện thân Mã đầu ở cõi súc sinh, địa ngục), Bồ tát không hề bị cái khổ của cõi đó chi phối.
  • Giác hạnh viên mãn: Thực hành Bồ tát hạnh là "tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn". "Công" là công phá mê lầm của mình và chúng sinh; "Đức" là trở về bản tính vô phân biệt bình đẳng.
  • Thành Phật: Mục tiêu cuối cùng là hoàn toàn nhập với tính viên giác từ xưa, đạt Phật quả vô thượng, thanh tịnh, sáng suốt.
  • Độ vô lượng chúng sinh: Người thành Phật sẽ giúp rất nhiều người trừ mê, quay về giác ngộ, nhận ra Phật tính của chính mình.

 

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025

Đêm trăng mây gió

 

Đêm ơi!
Ta hỏi đêm này,
Bao giờ đêm sáng
Như ngày không mưa. 


Trăng ơi!
Sáng ở góc trời
Để cho chồi nhỏ
Tựa cành đung đưa. 


Mây ơi!
Hãy nhớ núi cao
Gió ơi !
Hãy nhớ rì rào trên cây


Người ơi!
Đời khổ lắm ư?
Chân tâm ơi dậy!
Xoá tù vô minh.


Ta ơi!
Sống với chân tình,
cùng bao đạo hữu
tình thân Đạo Tràng. 

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2025

LƯƠNG TƯỚNG

Mạn đàm về LƯƠNG TƯỚNG


Các vị tướng súy nổi tiếng xưa nay, theo binh thư ghi chép lại, người tướng tài phải rõ được :NGŨ ÂM -  NGŨ TRẬN - NGŨ TƯỚNG - NGŨ HƯỚNG - NGŨ CHƯỚNG.

            Nói về Ngũ âm là nói về năm âm thanh gốc của vũ trụ không thay đổi là Cung, Thương, Giác, Chủy, Vũ.

            Về Ngũ trận pháp, cổ kim có 5 loại trận pháp căn bản từ đó biến dụng ra mà dùng đó là:Thiên Trận, Địa Trận, Nhân Trận, Thần Trận, Nhẫn Trận.

            Luận về Ngũ tướng là nói về 5 hạng tướng, bao gồm:

- Thần tướng: Lấy thời để tỏ bày, lấy đất để biến hóa, lấy Nhân để sử dụng.

- Cường tướng: Hạng tướng không cần xét thiên thời địa lợi khi hành binh, ai nghe đến cũng sợ hãi.

- Mãnh tướng: Giỏi về biến hóa trận thế, ra quân bất ngờ, cử động thần diệu, một ngựa một kiếm tung hoành về phía trước.

- Lương tướng: Bên ngoài thì uy nghêm, bên trong thì nhân nghĩa, ở giữa thì mạnh mẽ.

- Uy tướng: Lấy tín nghĩa, thưởng phạt rõ ràng.

 - Lương tướng (良將) là một khái niệm trong binh pháp và lịch sử quân sự, dùng để chỉ những vị tướng tài giỏi, có đức độ, mưu lược xuất sắc và trung thành với đất nước hoặc quân chủ mà họ phục vụ.

Cụ thể:

Đặc điểm của một Lương tướng

1. Tài mưu lược – Có khả năng bày binh bố trận, điều binh khiển tướng, biết cách ứng biến linh hoạt trên chiến trường.

2. Dũng cảm, quyết đoán – Không sợ khó khăn, nguy hiểm, dám đối mặt với thử thách.

3. Nhân nghĩa và đức độ – Đối xử tốt với binh sĩ, được lòng quân, không tàn bạo vô cớ.

4. Trung thành và tận tâm – Luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết.

5. Biết dùng người – Nhận diện nhân tài, đặt đúng người vào đúng vị trí.

Một số Lương tướng tiêu biểu trong lịch sử

Hán Cao Tổ Lưu Bang từng ca ngợi Hàn Tín là “Lương tướng” vì tài năng quân sự kiệt xuất.

Gia Cát Lượng (Thời Tam Quốc) là hình mẫu về một vị Lương tướng mưu trí và tận trung.

Nhạc Phi (Nhà Tống) với câu nói nổi tiếng “Tận trung báo quốc”.

Trần Hưng Đạo (Việt Nam) được xem là Lương tướng kiệt xuất, lãnh đạo quân dân đánh bại quân Nguyên – Mông.

    Lương tướng trong binh pháp. Khái niệm này xuất hiện nhiều trong Binh pháp Tôn Tử, “Một Lương tướng không chỉ giỏi chiến đấu mà còn biết cách giữ gìn sức mạnh của quân đội, biết thời điểm tiến lui, không đánh trận vô nghĩa.”

    Luận về Tướng hay có năm điều: Dũng,Trí, Nhân, Tín, Trung. Dũng mà coi thường cái chết dễ bị hại, Trí mà nhút nhát thì khốn đốn, Nhân mà ái kiến thì sinh phiền nhiễu, Liêm mà không thương người thì bị khinh nhờn, Cương mà chỉ theo ý mình thì thành tai hại. Nhu mà hay nghe người thì bị chèn ép.

    Bàn về cái hạnh xưa nay của người làm tướng thì đối với mình phải trong sạch, đối với kẻ sĩ thì quý trọng. Bởi thế cho nên nếu tướng súy không nghe lời khuyên can thì các anh hùng sẽ lẩn tránh; tướng không nghe theo kế sách hay thì mưu sĩ sẽ bỏ đi; coi thiện ác như nhau thì kẻ hiền và người ngu ở lẫn lộn, thưởng phạt lẫn lộn thì giềng mối sẽ tan rã; thường mừng thì thiếu uy nghiêm; thường giận thì lòng người xa lìa; nói nhiều thì cơ mật tiết lộ; ham thich nhiều thì tâm trí nghi ngờ, mê loạn: khoan dung thì làm cho quân sĩ cảm kích, hung bạo thì làm cho quân sĩ tức giận.

Cho nên phương châm sống của tướng súy nên:

    Xem nhẹ tiền của, sắc đẹp để giữ mình trong sạch;Tránh xa việc hiềm nghi để vượt lên; Lặng lẽ lo xa để khỏi thất bại; Tùy theo thời cơ mà biến hóa cho thuận tiện để lập công; Rộng rãi với người, dốc lòng làm việc để quy tụ tình thương; Nghe điều lành, đuổi bỏ kẻ gièm pha để tiến xa; Trước đo lường, sau hành động để mà ứng biến; Trước tin sau nói để hàng phục kẻ dưới; Trừng phạt tội lỗi, tưởng thưởng công lao để sửa người; Xét xưa rõ nay để soi sáng cho người; Coi rẻ sắc đẹp, quý trọng người để được người; Lìa bỏ việc tư, liều thân vì việc công để giữ nước; Thần sắc phải ngay thẳng, hình dung phải đoan trang; Đánh trận như sấm sét, sắp đặt khéo léo như quý nhân; Suy tư như ánh chiều, mệnh lệnh như sương tuyết; <break time=0.5s/>Được như thế mới đảm đương được việc lớn của quốc gia.

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2025

THIÊN VĂN ĐỊA LÝ NĂM 2025

DỰ ĐOÁN THIÊN VĂN – ĐỊA LÝ NĂM 2025

Chủ đề: 

Yêm Hỏa vận – Tam nguyệt đại và sự chuyển mình của Thiên thời, Chính trị, Kinh tế Việt Nam

Tác giả: Hậu học Quảng Kiến


CHƯƠNG I. DẪN NHẬP – 

TỪ NGUYÊN KHÍ CỦA NĂM ẤT TỴ

Năm 2025 là Ất Tỵ, một năm mang năng lượng của âm Hỏa – khí của Minh minh chi Hỏa, tức “ngọn lửa sáng mà ẩn sâu bên trong”.

Tỵ thuộc Hỏa, Ất thuộc Mộc. Mộc sinh Hỏa, do đó thiên thời vốn có cơ hội phát triển, song vì khí của năm thuần Dương, gặp Yêm Hỏa nên bề ngoài sáng rực mà bên trong hao mòn.


Theo thiên văn Việt Nam, năm này nằm trong vận sao số 4 – Yêm Hỏa, một vận có tính “đốt cháy” và “tiêu hao”, khiến những gì yếu, giả, hư, dối sẽ bị thiêu rụi.

Vận này đồng thời mang danh Pháp Vân – Pháp Vũ, là cách “mưa gió của Thiên pháp” – mưa để rửa sạch, gió để thanh lọc, nhưng nếu nghiệp lớn thì mưa gió hóa tai ương.

Như vậy, Ất Tỵ 2025 là một năm thanh lọc – thử lửa – tái sinh, vừa là cơ hội lớn, vừa là cảnh báo cho những ai còn ôm giữ sự tham cầu, giả dối hay cưỡng nghịch thiên đạo.

CHƯƠNG II. 

THIÊN VĂN VÀ KHÍ HẬU – DẤU HIỆU CỦA “PHÁP VŨ”

Trong lịch pháp Việt, năm 2025 đặc biệt bởi có ba tháng liền đủ 30 ngày – dân gian gọi là Tam nguyệt đại.

Theo cổ thư “Lạc Việt Địa Số”, những năm có tam nguyệt đại thường ứng với các biến động lớn về khí tượng, nhất là bão tố, lũ lụt và hạn hán thất thường.

Pháp Vân – Pháp Vũ tượng trưng cho mưa thuận gió hòa, nhưng khi gặp Yêm Hỏa thì mưa hóa dữ, gió hóa bạo.

Điều này gợi báo rằng Việt Nam sẽ có năm thời tiết cực đoan:

  • Mưa lớn miền Trung – Nam,
  • Hạn cục bộ miền Bắc,
  • Và nhiều biến động khí hậu vùng biển Đông – đặc biệt là các cơn bão muộn vào cuối thu, đầu đông.

Về mặt “Thiên tượng”, sao Hỏa chiếu mạnh vào cung Đông Nam và Nam, ứng với khu vực miền Trung và Tây Nguyên – những vùng sẽ chịu biến động mạnh về địa lý, thời tiết và dòng chảy kinh tế – dân cư  


CHƯƠNG III. 

CHÍNH TRỊ – KHÍ CỦA LỬA, SỰ THANH LỌC CỦA THỜI CUỘC

Hỏa tượng là ánh sáng và minh triết, nhưng cũng là thanh lọc và thiêu hủy.

Trong đạo Dịch, năm Yêm Hỏa thường ứng với “pháp trị thịnh hành” – nghĩa là thời thế đòi hỏi sự minh bạch, chỉnh đốn và phân minh giữa thiện – ác.


Năm 2025, với thiên khí “Lưỡng Hỏa thành Lư”, các tổ chức chính trị, doanh nghiệp và cá nhân có quyền lực sẽ trải qua chu kỳ thanh lọc mạnh mẽ.

Người làm thiện, giữ chính tâm, hướng về lợi ích cộng đồng – Hỏa giúp luyện vàng thành kim, tạo nên cơ hội thăng hoa.

Ngược lại, kẻ tham, giả trá, lợi dụng quyền thế – Hỏa thiêu rụi mọi hư ngụy – đó là “Hỏa tiệt”, mất hết từ danh đến lợi.


Đặc biệt, từ tháng 9 âm lịch trở đi, vận hành Thiên thời chuyển từ Ẩn Hỏa sang Minh Hỏa – tức là sự thật được phơi bày, ẩn ngữ lộ ra ánh sáng.

Các vụ việc liên quan đến quyền lực, đất đai, chính sách tài nguyên có thể được xét lại – minh định – hoặc thay đổi sâu sắc  

CHƯƠNG IV. 

KINH TẾ – CHU KỲ TIÊU HAO VÀ TÁI SINH

Âm Hỏa trong dịch học tượng cho tiêu hao năng lượng – tức chu kỳ “giảm tốc – chuyển hóa – phục hồi”.

Do vậy, năm 2025 là năm khó đoán nhưng giàu cơ hội tái cấu trúc kinh tế.


  1. Giai đoạn 6 tháng đầu năm (tính theo âm lịch):
    – Thị trường năng lượng, kim loại, và đất đai có xu hướng trầm lắng.
    – Hỏa khắc Kim, nên các ngành ngân hàng, kim khí, và tài chính dễ biến động.
    – Doanh nghiệp cần giữ “thủy khí trong tâm”, tức là chậm, quan sát, chờ thời.
  2. Từ tháng 9 đến tháng 12 âm lịch:
    – Tháng Ất Dậu (hành Thủy): mưa bão, thiên tai, thiệt hại cho nông nghiệp và logistics.
    – Tháng Bính Tuất (hành Thổ): có sự phục hồi, song “lục sát” cảnh báo tai nạn tài chính hoặc chính trị bất ngờ.
    – Tháng Đinh Hợi (Thổ, chi Hợi là Thủy): dòng tiền quốc tế đổ về, nhưng dễ thất thoát nếu đầu tư mạo hiểm.
    – Tháng Mậu Tý (Hỏa): Lưỡng Hỏa thành Lư, là thời điểm vàng cho người làm thiện, đầu tư bền vững, và sáng tạo công nghệ – giáo dục – năng lượng sạch.

Tổng thể, kinh tế Việt Nam 2025 sẽ mang sắc thái “Hỏa luyện Kim” – phải qua khó khăn mới sinh lợi thực chất.

Người biết thuận khí, tu đức, giữ lòng nhân thì gặp vận phát; kẻ chỉ cầu lợi ngắn hạn thì lửa đốt cả gốc rễ.

CHƯƠNG V. 

KẾT LUẬN – NHÂN QUẢ VÀ THUẬN THIÊN GIẢ TỒN

Thiên văn, địa lý, và nhân sự vốn đồng nhất trong một vòng tuần hoàn lớn.

Năm 2025 – Yêm Hỏa vận – không phải là năm dễ dàng, nhưng là năm của cơ hội giác ngộ, của sự chuyển hóa nghiệp báo và tái lập trật tự mới.


Trong Kinh Dịch, quẻ Hỏa Phong Đỉnh dạy rằng:


“Đỉnh giả, dưỡng dã” – Đỉnh là vật để nấu, tượng cho sự luyện hóa, nuôi dưỡng trí và đức.


Như vậy, nếu biết lấy Hỏa làm Đỉnh – tức dùng thử thách để luyện mình, thì chính thời vận dữ lại trở thành thiên cơ mở đạo.

Người làm chính trị, nếu hành chính nghĩa, lấy dân làm gốc, giữ sự liêm minh – thì vận Hỏa hóa minh, đất nước sáng lên.

Người làm kinh doanh, nếu giữ đạo, không tham, không dối, phát triển bền vững – thì Hỏa hóa nhiệt, sinh ra phúc ấm cho muôn đời.


Cuối cùng, xin kết bằng lời Phật trong Kinh Tăng Chi:


“Người biết thuận thời, hành đúng pháp, dù trong lửa cũng không cháy.”


Năm 2025 chính là ngọn lửa ấy – ngọn lửa của thanh lọc, trí tuệ và tái sinh.

Người nào thuận theo sẽ lớn mạnh, người nào nghịch lại sẽ tiêu tan.




🎧 Podcast này được soạn và thuyết giảng bởi Hậu học Quảng Kiến – người tìm cầu chân lý qua Dịch học, Phật học và khoa học thiên văn cổ truyền Việt.

Nguồn tham chiếu: Lạc Việt Địa Số, Thiên văn Vận khí học, và Kinh Dịch Bát Thuần Khảm – Khôn.