Sự thật về luân xa?
Trước khi đức Phật Thích Ca thuyết pháp ở Ấn độ, có
nhiều phái ngoại đạo xuất hiện. Trong đó là ngoại đạo Bà la môn nói về ba ngôi
thượng đế: Đại phạm thiên vương (Bratma), Tự tại thiên vương (Vichnu), Đại tự tại
thiên vương (Shiva). Theo giáo phái Ríc vê đa nói về kinh Vê đa (Phệ đà) của đạo
Bà la môn thì ba ngôi thượng đế này có Bratma là đấng sáng tạo, Vichnu là đấng
trưởng thành, Shiva là đấng hủy diệt. Đó là cái thuyết hữu thủy nguyên nhân đầu
tiên là Bratma, và thuyết hữu Chung nguyên nhân sau cùng.
Đến đời đức Phật có phái thờ thần lửa gọi là thờ thần
Vi đà và phái định mệnh Ni-kiền-tử (Nicanđa) là một trong sáu phái lục sư ngoại
đạo.
Phái thờ thần lửa Vi-đà khởi đầu cho việc khai mở luân
xa. Phái này nói có một con rắn lửa gọi là Kun-đa-li-ni ở huyệt trường cường đầu
xương cụt là đốt xương sống đầu tiên ở hậu môn. Luyện tập hít thở để làm cho
con rắn lửa này đi lên theo xương sống lên đến óc gọi là hỏa hầu quy nguyên (
Lên óc gọi là quy nguyên) Trong quá trình này thì có 7 trung tâm ở phía mặt trước
người là nơi tập trung khí đưa ra huyệt trường cường để kích động con rắn lửa
này lên óc thì sẽ gọi là đắc lục thông.
Mỗi một huyệt của 7 huyệt tiêu biểu cho 7 luân xa. Mỗi
một luân xa có hình như một hoa sen có nhiều cánh như sau:
1. Huyệt Hội âm là điểm giữa khoảng cách từ bộ máy sinh dục đến hậu môn.
Hít thở kích thích khí vào đó thì có thần thông có thể bay lên cao gọi là thần túc thông. Đây là luân xa số 1.
2. Huyệt Khí hải ở trên huyệt hội âm nằm giữa đường khoảng cách bằng hai đốt
ngón tay giữa của từng người từ rốn đến dưới rốn. Đây là luân xa số 2. Khi
thành công khích thích khí vào thì có thần thông gọi là túc mạng thông: Biết được kiếp trước của mình và của người khác
3. Huyệt đản trung ở cơ hoành giữa bụng và ngực theo chiều ngang và chiều dọc
ở giữa hai vú. Giao điểm của hai đường ngang dọc này là huyệt Đản trung. Đây là
luân xa số 3. Kích thích khí vào luân xa này thì có thiên nhĩ thông nghe được âm thanh xa.
4. Huyệt thiên đột ở hõm cổ. Đây là luân xa số 4. Kích
thích khí vào luân xa này thì có tha tâm
thông biết được ý nghĩ của người khác.
5. Huyệt Ấn đường. Ở giữa hai lông mày và giữa sống mũi. Giao điểm của hai đường
ngang dọc này là luân xa số 5. Kích thích khí vào huyệt này thì có thiên nhỡn thông mắt nhìn được rất xa.
6. Huyệt Cự Khuyết ở giữa rốn là luân xa số 6 cũng có tác dụng hỗ trợ cho huyệt
hội âm làm tăng thêm khả năng của thần túc thông.
7. Huyệt Bách Hội giữa đỉnh đầu là giao điểm đường dọc từ sống mũi lên, đường
ngang từ hai đầu tai lên. Huyệt này Đạo Bà la môn gọi là bông hoa sen nghìn
cánh. Kích thích khí đưa lên huyệt này thì gọi là đắc đạo thành thần sinh lên
các cõi trời của ba ngôi thượng đế trên.
Khi đức Phật thuyết pháp có nhiều người theo đạo
bà la môn quy y Phật. Các lý do này đối với từng người như sau: Hai ông A-la-la
và Ất-đâu-ram-pu đầu tiên tu theo phép này nhưng vì chấp rỗng không nên lạc vào
định của 4 cõi trời vô sắc giới. Các ông Xá-lợi-Phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề,
Ca-chiên-diên. Nghe đức Phật giảng về cái thân bất tịnh trong tứ niệm xứ giác
ngộ ngay các luân xa là giả dối. Sau đó tu theo tứ diệu đế và đều đắc quả
A-la-Hán. Ông Maha Ca-Diếp là người tu theo đạo thần lửa Vi-đà cũng giác ngộ tứ
niệm xứ sau đó tu theo pháp môn Viên thông Ý Thức thành Tổ sư đệ nhất Thiền
tông ấn độ. Sau này đến đời 28 là Đạt Ma tổ sư. Thiền Tông chủ yếu lấy Kinh đại
Bát nhã là biệt giáo Đại thừa làm căn bản.
Các luân xa này thực chất ứng với mạch khí dương ấm
ở xương sống và mạch khí âm mát ở trước mặt. Sự thực có 12 huyệt đạo tương ứng
với 12 giờ từ tí đến hợi theo ấn độ là từ cung tỳ la ( thái ất) là giờ tý, phạt
chiết la ( thiên Cương) giờ Sửu,…cho đến cuối cùng là tỳ yết la ( thái Sung) là
giờ hợi nhưng quy theo quẻ kép chu dịch có ý nghĩa cụ thể như sau:
1. Giờ Tý huyệt trường cường đầu xương sống gần hậu môn là quẻ Địa Lôi Phục.
Quẻ này khí dương mới phục hồi nên còn non yếu. Nếu ăn uống bừa bãi dễ sinh bệnh
vì hóa thành cách họa hại.
2. Giờ Sửu huyệt Thận Du ở xương sống đối xứng với huyệt Khí hải ở trước. Huyệt
này là quẻ Địa Trạch Lâm: Khí dương bắt đầu mạnh lên nếu ăn uống đúng cách thì
là cách thiên Y là cơ bản cho sức khỏe.
3. Giờ Dần Huyệt mệnh môn ở xương sống đối xứng với rốn ở phía trước. Huyệt
này là qủe Địa Thiên Thái là quẻ Diên Niên nếu ăn uống đúng cách sức khỏe ổn định.
4. Giờ Mão Huyệt Thần khuyết ở xương sống đối xứng với huyệt đản trung ở giữa
ngực phía trước. Huyệt này là quẻ Lôi thiên Đại Tráng. Ăn uống đúng cách là sức
khỏe đến mức đỉnh cao trong đời người.
5. Giờ Thìn Huyệt ở đầu đốt xương sống đầu tiên gần gáy cổ. Đây là quẻ Trạch
Thiên Quải. Quẻ này có tính cách quyết định cho tuổi thọ cao thấp. Ăn uống đúng
cách tuổi thọ cao vì là quẻ sinh khí.
6. Giờ Tỵ Huyệt Á môn ở hõm gáy sau đầu đây là quẻ Bát thuần Càn có cách quyết
định cho số mệnh. Nếu ăn uống sai cách dễ bị tai họa là mắc các bệnh mù điếc
câm ngọng
7. Giờ Ngọ Huyệt Bách hội giữa đỉnh đầu quẻ Thiên Phong Cấu. Nếu là ăn uống
sai cách sẽ bị điên cuồng vì huyệt này là quẻ họa hại có năm hào dương nhưng
hào 1 cuối cùng lại là hào âm.
8. Giờ Mùi Huyệt thiên đột hõm cổ là quẻ Thiên Sơn Độn. Quẻ này là cách thiên
y nếu ăn uống đúng cách. Nếu ăn uống sai cũng hóa thành người điên cuồng như
nghĩa chữ độn là chạy trốn và ẩn nấp.
9. Giờ Thân huyệt Đản Trung giữa ngực, Huyệt này ứng với quẻ Thiên Địa Bĩ. Ăn
uống sai cách thì sẽ có nhiều sự si mê bế tắc trong đời gọi là Bĩ. Ăn uống đúng
cách thì còn có duyên tốt trong tương lai nên gọi là Diên Niên.
10.
Giờ Dậu là huyệt Cự khuyết
huyệt này ứng với quẻ phong địa quán ( ở giữa rốn). Quẻ này là quẻ ngũ quỷ ăn uống
sai cách sẽ bị năm loại quỷ Kim thủy mộc hỏa thổ ám nhập gây thành tai họa cho
người luyện tập.
11.
Giờ Tuất là huyệt Khí Hải dưới
rốn hai đốt ngón tay giữa. Huyệt này ứng với quẻ Sơn Địa Bác. Ăn uống sai cách
sẽ mắc bệnh nặng gọi là Bác nghĩa là đổ vỡ rơi rụng rất lớn. Ăn uống đúng cách
thì có sinh khí mới. Sinh khí này kích thích cho việc xuất hồn vì tập trung khí
từ huyệt này linh hồn sẽ bay ra khỏi huyệt Bách Hội bằng cách tụ khí ở huyệt
này. Linh hồn bay ra tiếp xúc với các thần ở 4 cõi trời sắc giới. Sau khi chết
sẽ sinh về một trong 4 cõi trời này.
12.
Giờ Hợi huyệt hội âm. Huyệt
này ở giữa hậu môn và bộ máy sinh dục. Vì là quẻ Bát thuần khôn ăn uống đúng
cách là nghĩa thuận nghĩa là thuận sinh khí thì khỏe mạnh. Ăn uống sai cách tà
khí nhiễm vào có hai loại: Tà khí hư âm mắc bệnh dâm dục cuồng loạn. Tà khí hư
dương mắc bệnh điên cuồng. Đó là cái nghĩa chữ nghịch của quẻ thuần Khôn biến
thành hư âm. Nghịch là khí âm đi ngược lên đầu gọi là rối loạn luân xa sẽ sinh
ra tai họa lớn.
Sự tương ứng ở các huyệt giờ Hợi, Giờ Tuất, giờ Dậu,
Thân, Mùi, Ngọ, Tỵ ứng với 7 Luân xa sẽ có nguy hiểm như trên nói, nếu ăn sai
cách.
Ăn uống đúng cách theo luật khai mở luân xa chân
chính là phải ăn chay tuyệt đối. Vì ăn chay tuyệt đối mới đoạn tuyệt hẳn được
tình dục mới đủ điều kiện sinh lên các cõi trời không có tình dục chính là 4
cõi trời từ sơ thiền đến tứ thiền sắc giới. Ăn sai cách sẽ mắc các bệnh như đã
nói ở 7 giờ tương ứng với 7 luân xa nói
trên.
Riêng phép luyện rắn lửa Kun-đa-li-ni ở huyệt trường
cường của đạo thờ thần lửa cũng rất nguy hiểm vì ăn sai cách sẽ sốt rất cao gọi
là tẩu hỏa nhập ma nghiã là khí chân dương trong người bốc lên đầu ra hết bên
ngoài từ huyệt Bách hội ở giữa đỉnh đầu. Lúc đó người lạnh giá như băng chết
ngay lập tức. Có lúc thì hàn khí lạnh lẽo trong người tụ hết ở huyệt hội âm làm
cho người đó cũng hóa thành chứng gọi là hàn ngộ hàn tắc tử: người lạnh như
băng đờ đẫn không còn nhận biết được gì nữa. Đây là cái chết từ từ gọi là chết
lâm sàng.
Sau này vào khoảng thế kỷ thứ 15 sau công nguyên
đạo bà la môn thay đổi quy 3 ngôi thượng đế từ trước nói gọi là Ít-va-ra là nhất
nguyên thượng đế. Hiện tượng này cũng như các ngoại đọa khác có trên thế giới
hiện nay. Sau đó lại nói thượng đế ban cho cái khí tốt gọi là Pa-ra-na là nguồn
sinh khí của thượng đế. Ai mở được luân xa thứ nhất cho đến luân xa thứ 7 đều
tiếp thu được sinh khí này và lên thiên đường ở với thượng đế sau khi chết. Đến
thế kỷ thứ 19 có hai người: 1 là ông Đại tá lục quân Mỹ tên là Ôn-cốt, 2 là bà
kỹ sư cơ khí người Anh tên là A-lếch-xăng-đa-vít. Hai người này kết hợp với một
thầy ba la môn ấn độ tên là Kít-si-na-mu-ti thành lập ra liên đoàn thông thiên
học thế giới. Liên đoàn này trụ sở ở thủ đô Niu-đe-li Ấn độ. Gọi là thông thiên
học nghĩa là luyện tập khai mở luân xatheo phép thu khí prana vào 7 luan xa khi
thành công hiểu rõ việc trên trời, hiểu rõ ý trời nên gọi là thông thiên học.
Thông thiên học thực sự là một việc gán ghép hỗn
độn lý thuyết này như sau:
1. Đấng tạo hóa là chúa tể sinh ra vũ trụ, ban phát khí pa-ra-na cho tất cả mọi
nơi, mọi loài.
2. Đấng thái dương thượng đế theo lệnh của đấng tạo hóa cai quản một thái
dương hệ
3. Đấng Ngọc hoàng thượng đế cai quản loài người ở quả đất này.
4. Đức Phật thích Ca mâu ni theo lệnh của 3 đấng trên truyền Phật giáo nguyên
thủy ( Te ra va ra) cho mọi người
5. Đấng đại tiên theo lệnh của 4 đấng trên đi truyền phép khai mở luân xa
6. Các vị Bồ tát theo lệnh của 5 đấng trên giúp người khai mở luân xa
7. Các vị chân tiên theo lệnh của 6 đấng trên giúp người khai mở luân xa
7 đấng
này là 7 bậc của 7 tầng tiến hóa của tất cả các loài.
Do đó
đây cũng là cách mà sau này các đạo ở đồng bằng sông cửu long xuất hiện cũng có
cách nói gần giống như thế biến tướng thành cái gọi là tam giáo đồng nguyên.
Sau đó thờ tất cả các vĩ nhân ở nhiều nước trên thế giới gọi là hòa đồng tôn
giáo.
Những
người này nói như những người theo Phật giáo nguyên thủy nghĩa là không cần ăn
chay cứ ăn thịt uống rượu bình thường cũng mở được luân xa. Đó là sự sai lầm lớn
vì làm cho loạn khí trong người. Sự loạn khí này nghĩa là làm cho khí âm hư đi
từ huyệt hội âm lên đến huyệt bách hội trái với cái luật khí chân âm phải đi từ
trên xuống dưới. Lại làm cho khí dương hư đi ngược từ trên đỉnh đầu xuống huyệt
hội âm trái với cái luật khí chân dương phải đi từ dưới lên trên.
Khi
cách đây hơn 4000 năm vua Phục hy làm ra tiên thiên bát quái, vua Thần nông định
ra phép tắc phong thủy, Vua Hoàng đế định ra phép chữa bệnh cứu người thì ở
sách Hoàng đế nội kinh tố vấn đã chỉ rõ khí dương đi từ dưới lên trên. KHí âm
đi từ trên xuống dưới. Đây là cách luyện khí công đúng như kinh trung A hàm của
tiểu thừa nói: Hít vào quán tưởng khí âm mát là chân âm đi từ đỉnh đầu xuống
gan bàn chân. Khi thở ra quán tưởng khí dương ấm áp là chân dương đi từ gan bàn
chân lên đến đỉnh đầu. Khoảng cách hít vào và thở ra nhịp nhàng đều đặn gọi là
nhập chân âm mát cân bằng với xuất chân dương ấm. Khi khí âm đến huyệt hội âm
thì chuyển sang huyệt trường cường đầu xương sống gần hậu môn gọi là khí âm mát
chuyển hóa thành khí dương ấm. Lúc đó người tập nên co hậu môn lên bằng cách
thóp bụng để giúp cho quá trình chuyển hóa này thành công. Trong khi hít vào thở
ra luôn luôn để đầu lưỡi chạm hai hàm răng chạm nhau là để cho mạch khí dương gọi
là mạch đốc lưu thông với mạch khí âm gọi là mạch nhâm. Âm dương thông suốt thì
khí nào đi vào tạng ấy như khí màu trắng là khí dương đi vào phổi, khí màu đỏ
là khí dương đi vào tim. Cả hai khí này đưa lên bộ óc làm cho người tỉnh táo
sáng suốt. Khí màu xanh là khí âm đi vào gan mật. Khí màu vàng là khí âm đi vào
dạ dày lá lách. Khí màu tím là khí âm đi vào hai quả thận. Lúc đó là lúc gọi là
dẫn khí quy nguyên nghĩa là thận thuộc quẻ khảm rút đi cái hào giữa là hào
dương đi lên tim là quẻ Ly. Hào dương này thay thế cho hào giữa của quẻ Ly là
hào âm, ở tim. Như thế hào âm đi xuống thận thành hào giữa của quẻ khôn. Hào
dương đi lên tim thành hào dương của quẻ càn. Vậy nhập âm xuất dương là cách dẫn
khí quy nguyên biến thượng khí của quả tim từ quẻ Ly hóa thành quẻ Càn gọi là
khí thượng thiên. Biến hạ khí của hai quả thận từ quẻ khảm hóa thành quẻ khôn gọi
là khí hạ địa. Trên thiên dưới địa là thuận lý thượng dương hạ âm. Bất cứ ai dù
luyện tập hay không luyện tập khí công thì khí vẫn vận hành theo quy luật này.
Chỉ có chỗ khác nhau là người tập luyện khí công thì khỏe nhiều hơn, người
không tập khí công nhưng ăn uống điều hòa thì khỏe ít hơn. Người ăn uống sai
cách mà không tập luyện thì sức khỏe yếu. Các sư Tổ thường khuyên cứ nên hít thở
theo cách hít vào sâu dài, thở ra nhanh. Hít vào bụng phình ra sau đó đưa khí
lên ngực làm cho ngực nở ra, tiếp theo thóp bụng thở ra quán tưởng các khí độc
trong người bị tống ra ngoài cho hết. Thế là cách thở đơn giản nhất thích hợp với
nhiều người có trình độ cao thấp khác nhau. Từ cách này thiểu dục nghĩa là giảm
bớt tình dục thì vẫn có khả năng sinh lên các cõi trời tứ thiền sắc giới là hữu
lậu thiện của thế tục.
Sau
đó nếu quy y tam bảo luyện tập khí công theo phép viên thông về tỵ căn của đức
Phật thích ca dạy ông bàn đặc ca thì chữa được chứng đần độn hay quên sau đó sẽ
đắc quả A la hán thoát khỏi kiếp luân hồi. Hoặc tu theo phép viên thông về tỵ
thức của Đức Phật Thích Ca dạy ông Tôn đà la nan đà thì sẽ diệt trừ tâm tham muốn
tình dục, lại quán hơi thở là hào quang màu trắng ra vào ở hai lỗ mũi. Hít vào
quán tưởng mình và tất cả mọi vật xung quanh hóa thành vô tướng. Thở ra quán
mình và mọi vật xung quanh hóa thành có tướng. Như thế các tướng liên tục là bất
sinh bất diệt. Đồng thời cũng gọi là quán sắc tức thị không, không tức thị sắc
như khế kinh Bát nhã tâm kinh và khế kinh đại bát nhã của biệt giáo Đại thừa dạy.
Đó là con đường giản dị nhất chắc chắn nhất để minh tâm kiến tính hay trực chỉ
nhân tâm kiến tính thành Phật. Đây là phép khí công khai mở lục thông chân
chính tốt đẹp nhất vì có cơ sở chính là chân tâm bất sinh bất diệt làm chỗ y trụ
tốt nhất. Như thế không bị tẩu hỏa nhập ma, không bị hàn ngộ hàn tắc tử chắc chắn
sẽ siêu phàm nhập thánh đắc các đạo quả từ tiểu thừa cho đến tối thượng thừa.
Vĩnh viễn thoát ly luân hồi đời đời giải thoát an vui. Sẽ nhận ra một điều chân
lý là tất cả thần thông chân chính từ chân tâm hiện ra. Thần thông mê lầm là dựa
vào các huyệt đạo luân xa của cái thân bất tịnh gây ra. Vì nguồn gốc bất tịnh
cho nên kết quả là vô thường giả đối.
Khế
kinh kim cương bát nhã ngày xưa được các sư Tổ thiền phái trúc lâm đời Trần giảng
dạy cho các đệ tử đồng thời cũng làm đề thi cho các hội thi tiến sĩ chấm đến đệ
nhất tiến sĩ là đỗ trạng nguyên ( Tổ đệ tam phái trúc lâm là Huyền quang chính
là trạng nguyên Lý Tiến Đạo đời vua trần Nhân Tông). Khế kinh kim cương chỉ rõ
lý tứ cú kệ là:
1. Quán cái thân không thật có gọi là đệ nhất kệ thân không.
2. Quán cái tâm bất khả đắc gọi là đệ nhị kệ tâm không
3. Quán cái ngã do thân tâm giả dối tạo thành gọi là đệ tam kệ ngã tướng không
4. Quán các pháp 7 đại hình tướng tạo thành cái ngã của chúng sinh và hình tướng
của thế giới chúng sinh đang sinh sống ở đó gọi là đệ tứ kệ pháp tướng không.
Từ bốn cái không tướng này xả được cái chấp bốn tướng
đó sẽ nhập bản tính vô vi. Do đó khế kinh kim cương bát nhã nói các bậc thánh
hiền đại thừa tùy theo vô vi mà tu đắc khác nhau. Sau đó là quy về vô thượng
chính đẳng chính giác tức là thành Phật. Vô vi là pháp bất sinh bất diệt chính
là Phật tính thường trụ. Chính là thanh tịnh pháp thân. Chính là bản thể chân
không. Đây cũng gọi là Chân Như nghĩa là chân thật không hề biến đổi. Con đường
chân chính này là tương lai tươi sáng của tất cả chúng sinh nên chọn và nên thực
hành mãi mãi.