Thứ Tư, 29 tháng 8, 2012

Họa thơ Cụ Trạng Trình


THẾ TỤC!
Khôn dại nào ai chẳng có nghề
Khó khăn phải lụy đến thê nhi
Được thì thân thích chen chân đến
Thất thế hương lư ngoảnh mặt đi
Thới có tanh hôi ruồi mới đến,
Sành không mật mỡ Kiến bò chi
Đời nay những trọng người nhiều của,
Bằng đến tay không mấy kẻ vì!
Trạng Trình – Bạch Vân Thi Tập
XUẤT THẾ!
Tâm chẳng động vì, bởi Đến -  Đi
Chướng ngại khó khăn, có quản gì
Được thì ta lại hành bố thí
Thất thế quán nghiệp, chẳng hề chi
Sống có xuống lên thời rõ Đạo
Nếu không phiền não Niết bàn chi ?
Đời đời những trọng người Đức hạnh
Bạc Phúc không tu chẳng được gì!.
Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng


Chùm bài – Nhờ Kính Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm

 
Thói đời
Thế gian biến đổi vũng nên đồi
Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi
Còn bạc, còn tiền còn đệ tử
Hết cơm, hết rượu hết ông tôi
Xưa nay đều trọng người chân thực
Ai nấy đều ưa kẻ đãi bôi
Ở thế mới hay người bạc ác
Giàu thì tìm đến khó tìm lui.
Trạng Trình – Bạch Vân Thi Tập


Xuất thế 2
Thế sự muôn đời lắm nổi trôi
Đua đòi, đàn đúm với ăn chơi
Còn tu, còn chứng còn Đắc Đạo
Chẳng tu hết phúc lại luân hồi
Xưa nay chỉ mong thời Vô Sự
Có ai nào ưa Tử-Sinh thôi!
Như thế mới hay Nhân - Duyên - Quả
Sống không Tu- Chỉnh chết đến nơi!
Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng



GIỚI SÙNG PHẬT VÔ ÍCH!
Suy Lý cho cùng Phật ấy ta
Lọ là chung bóng đạo Di Đà?
Hiền lành, hãy giữ bề tu kỷ
Dối trá đừng nghe ông xuất gia
Dễ chúng đúc chuông nhân đã lạ
Đặt điều phá ngục thói ru mà
Chẳng tin, Lương Vũ còn bia cũ,
Tra mà lại biết thực chẳng ngoa.
Trạng Trình – Bạch Vân Thi Tập

XUẤT THẾ 3!
Ngẫm thơ Cụ Trạng khuyến lại ta
Suy Lý thì Ta Phật một nhà.
Đức hạnh hãy mong hằng tu chỉnh
Tỉnh thức chớ nghe kẻ gạt nha!.
Công đó việc đây đừng chấp sự,
Không thì trói mình với Quỷ - Ma
Chẳng tin, Lương Vũ còn bia cũ,
Bởi chỉ xây thôi nghiệp chẳng qua!.
Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng


Chùm bài – Nhờ Kính Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm


Thứ Bảy, 18 tháng 8, 2012

Bình tranh của Thầy Lú :)


 
Ý NGHĨA BỨC TRANH?
***
Một tên to xác một kẻ nhìn cau ( có). 
Hai người bé tí tên trước tên sau
Một câu hỏi khó không lời đáp. 
Nghĩ mãi đến giờ mặt vẫn chau. :))
*** 
Một hồi nhìn trước ngó sau. 
Thấy Ông dế bố mắt chau đứng nhìn. 
Đàn con đứa vịn đứa chơi. 
Có con Cáo lớn đánh hơi thấy mồi. 
Nguy nguy nghiệp tới con ơi. 
Chẳng lo tu sửa bố thời gánh sao. 
Sau này bố có bề nào. 
Các con hãy nhớ để vào trong tâm. 
Chậm nhanh chớ có đi nhầm. 
Kẻo vào miệng Cáo lỡ lầm đời tu. :))
***
Mải chơi chẳng biết chính tà. 
Bố dùng Nhân Quả ( Cáo) để mà dạy con. :)
***
Nhân sao Quả ấy tức thì. 
Dù cho Bố lớn cũng chẳng ( làm) gì được Quả Cáo ( đâu). 
***
Sống thiện ( như bố) thì chẳng làm sao.
Nếu đời không thiện Cáo vào ăn ngay.
   
(Quảng Kiến) 

Thứ Năm, 16 tháng 8, 2012

ĂN CHAY


Phần 1: ĂN Mặn là TỰ RƯỚC HỌA VÀO THÂN!
Theo tiến sĩ Hàn Đinh Đốn của một trường đại học Mỹ, đã từng giải phẫu phân tích đường ruột, chứng minh con người thích hợp ăn chay mà không thích hợp ăn thịt. Ông ta giải thích ruột non của động vật ăn thịt thì ngắn, ruột già thẳng và trơn nhẵn; ruột non của động vật ăn chay thì dài, ruột già cũng dài; ruột của động vật ăn thịt lẫn ăn chay dài hơn động vật ăn thịt, ngắn hơn động vật ăn chay. Ruột già của con người dài khoảng 5 – 6 mét và quằn tới quằn lui, vách ruột không láng đồng thời chồng lên một đống.
Đường ruột như thế chỉ thích hợp với ăn chay, không thích hợp với ăn thịt. Bởi vì thịt ít chất xơ, sau khi tiêu hóa để lại cặn bã. Ruột của con người tương đối dài, thức ăn ở trong ruột quá lâu sẽ sinh ra độc tố, tăng thêm gánh nặng cho gan. Gan quá sức chịu đựng sẽ trở nên xơ cứng, thậm chí ung thư. Lại nữa, trong thịt có rất nhiều a xít uric, Urê, ăn vào tăng thêm gánh nặng cho tạng thận, dẫn đến bệnh thận. Vả lại, thịt ở trong ruột già, ruột non phải qua sự hấp thu quá độ không cần thiết. Và thịt vốn lại thiếu chất xơ, dễ tạo nên táo bón, dẫn đến bệnh trĩ và ung thư trực tràng. Sự phân tích đường ruột con người trên đây, đủ để chứng minh con người ăn thịt là “tự rước họa vào thân”. 

Phần 2: ĂN CHAY LÀ THÀNH PHẬT!

NHÂN

"Xưa nay trong một bát canh
Oán sâu như bể hận thành non cao
Muốn hay nguồn gốc binh đao
Lắng nghe lò mổ tiếng gào đêm thanh"


Từ ngàn xưa đến nay, một bát canh chúng ta ăn, nhìn qua tuy bình thường chỉ là một bát canh, nhưng sự oán hận trong đó thật sâu hơn biển. Muốn biết vì sao trên thế giới chiến tranh, tai kiếp, binh kiếp, ôn dịch xảy ra mãi không thôi? Tất cả đều do ăn thịt mà ra. Nếu bạn muốn hiểu sự thật, đang đêm bạn hãy thử vào lò mổ xem sao? Giết trâu trâu khóc, giết heo heo khóc, giết dê dê khóc. Những tiếng khóc thê thảm, những tiếng gào thảm thiết, những oán hận trùng trùng, những oan độc, những cừu hận ấy tỏa khắp hư không mới tạo nên bao tai kiếp cho thế gian. Giả sử ai ai cũng ăn chay, thì những oan nghiệt ấy tức khắc tiêu dứt, có thể biến can qua thành hòa bình, biến bạo lực thành an lành, được như thế mới cứu vãn được tai kiếp cho tương lai.

QUẢ

Để viên mãn mọi việc thì theo Tam vô lậu học của nhà Phật. Đó là Giới – Định – Tuệ, là Thập Ba la mật gồm: Bố thí, trì giới, An nhẫn, Tinh tiến,Thiền định, Trí tuệ, Đại nguyện, Đại phương tiện, Đại Lực, Nhất thiết chủng Trí. Chỉ có chư Phật và các vị Đại Bồ Tát mới đầy đủ Thập Ba la Mật.
Chúng ta tu hành ai cũng muốn chóng thành Phật đó là phát Tâm Bồ Đề. Bồ Đề tâm có hai phần là Bồ đề Tâm Nguyện và Bồ Đề Tâm Hạnh. Riêng Bồ đề Tâm nguyện, tự nó đã mang sẵn nhiều quả báo lành nhưng vẫn chưa bằng Bồ Đề Tâm Hạnh, nguồn gốc của tất cả công đức.
Tu đạo là phát triển Tâm Bồ đề, đó là sự Bố - Thí, sự hy sinh sâu sắc để mang lại hạnh phúc cho mọi chúng sinh với Tâm bình đẳng. Khi đã coi chúng sinh với mình không khác thì chẳng bao giờ lại đi giết hại, ăn thịt chúng sinh cả (ăn chay). Coi chúng sinh đều là Phật sẽ thành, mà phát lòng Tử-Bi trợ giúp để chúng sinh sớm thấy được Tính Phật thoát khỏi nhà Vô minh. Tinh  tiến tu theo Đại Thừa chính Pháp sẽ dần dần thể nhập được thật tướng Đại thừa tức là TRÌ GIỚI. Chúng sinh vọng tưởng nhiều đời nhiều kiếp ( kết sử sâu dày) muốn cho thấy vấn đề để nhận diện và tiến tới giải quyết cần TINH - TIẾN, kiên trì đến khi thành công, quá trình này gọi là AN - NHẪN. Biết rõ Tâm nguyên của chúng sinh với Phật vẫn đồng nên không trụ vào tướng của Tâm, tức là tùy duyên với hạnh tinh tiến mà hành hạnh Từ Bi nhưng không trụ vào đối đãi (có việc để làm và có chúng sinh để độ) sẽ đạt được ĐỊNH. Thấu rõ được Tự - tính thanh tịnh Tâm theo duyên mà không đổi, không dổi mà theo duyên, thông tỏ vạn pháp là trùng trùng duyên khởi thì được TRÍ – TUỆ ( Trí Bát nhã).  Thấy chúng sinh vốn đầy đủ Pháp giới tính sáng suốt không thêm không bớt so với chư Phật, chẳng qua do tâm phân biệt mà bị luân hồi trong sáu đường, nên khi có được TRÍ-TUỆ BÁT NHÃ rồi thì nguyện độ khắp cả chúng sinh là ĐẠI - NGUYỆN. Tinh tiến Đại - kiếp này đến Đại - kiếp khác, Hoa - tạng thế giới này đến Hoa - Tạng thế giới khác là có ĐẠI – LỰC dần dần thông tỏ hết thảy thì được NHẤT-THIẾT-CHỦNG-TRÍ thị hiện thành PHẬT.
Như vậy từ cái Tâm BÌNH-ĐẲNG chúng ta “ĂN CHAY – UỐNG CHAY – CHƠI CHAY – LÀM CHAY…” trong chính niệm thì từ ĂN CHAY sẽ thành PHẬT. Để rồi có thể rong chơi Sinh- Tử hoặc thị hiện Niết – Bàn.

VỀ ĂN - CHAY - MẶN!
ĂN:
Hay nhất là vẫn Ăn - năn
Để cho phiền não chẳng ăn mất mình.
CHAY:
Hay nhất là vẫn chay trường,
Để cho vọng tưởng chẳng đường nào đi.
MẶN:
Hay nhất là mặn tấm lòng,
Để cùng sinh chúng một lòng Quy y.
(Quảng Kiến)

Thứ Ba, 14 tháng 8, 2012

Chùa Nghệ An


Kiến trúc Chùa Nghệ An
1.     Đánh giá Hiện trạng:
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt: xuân, hạ, thu, đông. Từ tháng 4 đến tháng 8 dương lịch hàng năm, tỉnh chịu ảnh hưởng của gió tây nam khô và nóng. Vào mùa đông, chịu ảnh hưởng của gió mùa đông bắc lạnh và ẩm ướt.
Nghệ An là một tỉnh có đầy đủ địa hình núi cao, trung du, đồng bằng và ven biển. Phía Tây là dãy núi Bắc Trường Sơn. Tỉnh có 10 huyện miền núi, Các huyện, thị còn lại là trung du và ven biển, trong đó Quỳnh Lưu, Diễn Châu, Nghi Lộc, và Cửa Lò… giáp biển.
Phật giáo được truyền vào Việt Nam tính đến nay đã trải qua hơn 2000 năm lịch sử và có thời kì đạo Phật đã trở thành tư tưởng đạo lý, được cộng đồng xã hội trân trọng và gìn giữ với vị trí là quốc đạo như thời Lý và thời Trần.
         Cùng với điều kiện đó Phật giáo đã được hưng phát tại đất Nghệ An. Qua quá trình tìm hiều và nghiên cứu khảo cổ tại các tự viện và phế tích cũng như trong tâm thức người dân Xứ Nghệ đã chứng minh Phật giáo có mặt tại đất Nghệ An cách đây hàng ngàn năm. Có thể nói đạo Phật đã được phát triển sâu rộng trong đời sống nhân dân Xứ Nghệ, mỗi làng xã đều có chùa để thờ Phật, đặc biệt khi vua Trần Nhân Tông về đây chiêu mộ binh sỹ đánh đuổi quân Nguyên Mông, thời kỳ này nhiều chùa đã được vua ban chiếu xây dựng và khuyến khích nhân dân công đức lập chùa.
Trong thời gian vua Lê Lợi lập đại bản doanh cũng như thời kì vua Quang Trung tiến quân ra thành Thăng Long cũng đã dựa vào cơ sở chùa chiền để đóng quân và huấn luyện binh sỹ.
Trải qua thăng trầm với lịch sử phát triển dân tộc, nhân dân Nghệ An sớm giác ngộ giáo lý của nhà Phật là chân lý giải thoát tối hậu, cho nên đã nhiều đời nối tiếp nhau xây dựng mở rộng Chùa để làm nơi hoằng pháp và đáp ứng nhu cầu tín ngưỡng tâm linh của nhân dân Nghệ An.
Theo thống kê sơ bộ số lượng Chùa tại Nghệ An còn sót lại dấu tích khoảng gần 500 ngôi Chùa. Do đó việc phục dựng trùng tu cần phải có thời gian và sự cân nhắc kỹ lưỡng về mọi mặt. Từ ảnh hưởng của khí hậu vùng miền đến địa hình và phong tục tập quán địa phương.

2.     Các đặc điểm vùng miền ảnh hưởng đến cấu trúc và không gian kiến trúc chùa
Căn cứ vào hiện trạng thực tế, một ngôi chùa tại Nghệ An muốn xây mới, tu bổ hay mở rộng sẽ chịu ảnh hưởng quyết định bởi yếu tố khí hậu của nắng gió miền Trung. Giờ nắng và lượng mưa nhiều nên kiến trúc chùa sử dụng dãy nhà hành lang có mái che kết nối các hạng mục Chùa là tối cần thiết. Quy trình quy hoạch các hạng mục Chùa làm xuất hiện ra các không gian kiểu giếng trời sẽ hình thành các túi khí tự nhiên góp phần giảm bớt hơi nóng của không khí khô và hanh (gió Lào). Việc tạo ra nhiều vườn cây và ao hồ mặt nước sẽ giúp điều hòa vi khí hậu kết hợp cùng với giải pháp bố trí linh hoạt theo địa hình hiện trạng của ngôi chùa sẽ tạo ra nhiều hơn cảnh quan Kiến trúc đặc sắc, mang đậm dấu ấn Phật giáo Nghệ An. (tham khảo thiết kế mới chùa Đại Tuệ).

3.     Các vấn đề cốt lõi trong việc thiết kế và tu bổ chùa tại Nghệ An
Do ảnh hưởng mang tính đặc thù của địa phương nêu trên về mặt khí hậu. Chùa Nghệ An trong quá trinh tu bổ cải tạo hay mở rộng cần phải cân nhắc trước khi thực hiện thiết kế ở các nội dung sau:
1. Về phương diện quy hoạch kiến trúc: Căn cứ vào quy mô và định hướng phát triển để lựa chọn mô hình chùa theo các phương án của chùa điển hình nêu trên (sẽ có hình ảnh cụ thể chi tiết trong phần trình chiếu khi trình bày tham luận).
Khuôn viên chùa cần bố trí vườn cây ở hướng Tây để chắn nắng gắt vào các ngày nóng. Bố trí nhiều hồ sen, ưu tiên mặt nước ở hướng Tây Nam để điều hòa khí hậu mùa gió Lào. Giải pháp quy hoạch phải là sự hòa nhập tối đa với thiên nhiên nhằm thích ứng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt.
          Bố cục các hạng mục công trình trong Chùa cần tuân theo sự kết nối liên tục có ý đồ tuân theo tư tưởng cân bằng đối xứng thông qua trục chính đạo. Nhấn mạnh ở tư duy bố cục ngang bằng sổ thẳng với giải pháp tạo kết nối giữa các hạng mục với nhau theo hành lang có mái che mưa nắng. Cấu trúc này đảm bảo cho việc sinh hoạt cũng như tu tập hành trì  các thời khóa công phu của Tăng Ni không bị ảnh hưởng bởi thời tiết.
          Kiến trúc chùa cần nhiều hơn các giải pháp biểu tượng mang tính tượng trưng cao. Cấu trúc hình khối đơn giản mà khúc triết có tính giáo hóa saa sắc (thể hiện ở nhiều không gian mô tả tích Phật và giáo lý căn bản) phù hợp với đại đa số người dân Nghệ An hiện nay, chưa có nhiều điều kiện tiếp xúc với giáo lý của Đức Phật trong suốt thời gian dài qua hai cuộc chiến tranh.
2. Về phương diện kỹ thuật xây dựng:
Đặc thù bởi khí hậu nóng ẩm nên việc xây dựng chùa tại Nghệ An cần sử dụng các vật liệu có độ bền cao, chịu được tác động của khí hậu khắc nghiệt. Cụ thể đối với các ngôi chùa có điều kiện về kinh tế nên sử dụng gỗ chất lượng cao như gỗ Lim, gỗ gụ… vật liệu xây là đá nguyên khối và gạch nung.  Ngoài các vật liệu truyền thống nêu trên các ngôi chùa hiện nay có thể sử dụng vật liệu mới bê tông cốt thép mác cao. Hoặc kết hợp giữa bê tông và gỗ để tạo ra ngôi chùa đáp ứng yêu cầu về khối tích sử dụng và phù hợp với địa hình phức tạp, không đồng nhất (xem minh họa).

3. Về mỹ thuật và màu sắc trong kiến trúc chùa Nghệ An:
 Ngoài việc chú ý tuân theo các tiêu chí nêu trong phần chùa điển hình Việt Nam. Chùa Nghệ An với bề mặt ngoại thất cũng như nội thất sẽ chịu ảnh hưởng bởi môi trường khô hanh ẩm ướt đặc trưng của khí hậu miền Trung. Do đó việc hoàn thiện bề mặt cần phải sử dụng các chất liệu có độ bền cao, ít bị ảnh hưởng bởi khí hậu, cụ thể vật liệu phải chịu được nhiệt độ và độ ẩm cao, kèm theo đó là sự chống bay màu của bề mặt hoàn thiện và sự ẩm mốc xảy ra trong quá trình tiếp xúc với nắng và mưa nhiều.   

Chùa Việt Nam

Bài Tham luận

Đánh giá và định hướng phát triển kiến trúc Chùa Việt Nam.

Nay do nhiều nhân duyên, Phật giáo Việt Nam đang được phát triển mạnh mẽ trở lại. Nhiều Chùa Phật được trùng tu, nhiều ấn phẩm Phật Giáo được ấn hành. Các nghi lễ Phật giáo không chỉ bó hẹp trong các Phật tử thiện tín mà đã lan rộng đến nhiều tầng lớp nhân dân VIệt Nam. Việc tu bổ và xây dựng mở rộng quy mô chùa trở nên cấp thiết, nhằm đáp ứng chất lượng không gian cho việc tu tập cũng như nhu cầu tín ngưỡng của nhân dân.
Qua gần 2000 năm lịch sử Phật Giáo Việt Nam, kiến trúc Chùa cũng như Phật điện thay đổi cùng với thời gian và không gian. Tùy thuận theo sự phát triển văn hóa xã hội, kết hợp với địa hình, khí hậu vùng miền mà các kiến trúc chùa có sự biến đổi sai khác. Nhưng dù cho sự biến đổi đã xảy ra như thế nào, chúng ta cũng nhận ra một số đặc điểm chung của chùa Việt Nam.
Ở Việt Nam cũng như ở nhiều nước phương Đông, bên cạnh đền, đình thờ thần, chùa Việt Nam là nơi thờ Phật, và trong nhiều trường hợp, thờ cả thần. Việc xây dựng chùa bao giờ cũng là công việc trọng đại đối với nhân dân làng quê Việt Nam. Trước tiên là phải chọn đất xây chùa. Việc chọn đất thường bị chi phối bởi quan niệm phong thủy, cho rằng vị trí của chỗ ở, thế đất, có ảnh hưởng to lớn đối với con người sống trên đó. Nhìn chung, chùa Việt Nam thường được dựng ở những nơi có cảnh trí thiên nhiên đẹp và có mối liên hệ với cộng đồng. Như vậy việc ý thức về môi trường cảnh quan tự nhiên và xã hội phải luôn được cân nhắc kỹ càng trong suốt quá trình xây dựng, tu bổ và phát triển chùa.
Nội dung giới hạn của bài tham luận chúng tôi mạnh dạn nêu khái quát chung của kiến trúc chùa Việt qua các thời đại ở phần 1. Trong phần 2 căn cứ vào sự nghiên cứu thực tế và nhìn nhận dưới tư duy của nhà thiết kế và xây dựng chúng tôi đưa ra mô hình chùa điển hình bởi các khái niệm và nguyên tắc cụ thể. Phần 3 bài tham luận nêu ra một số vấn đề cần chú ý thêm trước khi thiết kế và tu bổ Chùa tại tỉnh các tỉnh miền Trung nói chung và Nghệ An nói riêng.

Phần 1.
Khái quát kiến trúc chùa Việt

I. Khái quát chung về Quy hoạch kiến trúc chùa Việt Nam

Chùa Việt Nam bao giờ cũng là một quần thể kiến trúc, gồm các hạng mục công trình được bố trí theo các giải pháp bố cục khác nhau. Tổ hợp không gian chùa luôn tuân theo nguyên tắc khép kín mang tính hệ thống, tạo ra một không gian biệt lập với khu dân cư nhưng không quá cách xa để thuận tiện cho việc tu dưỡng của tăng ni và giáo hoá chúng sinh. Tên gọi các giải pháp quy hoạch này được đặt theo các chữ Hán có dạng gần với bình diện kiến trúc chùa, cụ thể như sau:
1.     Kiểu chùa chữ Đinh (),
Có chính điện hay thượng điện (gọi là Đại hùng Bảo Điện), tức là ngôi nhà đặt các bàn thờ Phật, nối thẳng góc với nhà bái đường hay nhà tiền đường ở phía trước. Nhà bái đường đôi khi được gọi là chùa hộ, có lẽ vì ở đây thường tôn trí các tượng Hộ Pháp. Một số chùa tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Hà, chùa Bộc (Hà Nội); chùa Nhất Trụ, chùa Bích Động (Ninh Bình); chùa Trăm Gian (Hải Dương); chùa Dư Hàng (Hải Phòng),...

2.     Kiểu chữ Công (), Phổ biến hơn là kiến trúc có nhà chính điện và nhà bái đường song song với nhau và được nối với nhau bằng một ngôi nhà gọi là nhà Thiêu hương, nơi các vị tu hành làm lễ.

3.     Kiểu chùa chữ Tam ( ) thông thường là quy hoạch ba nếp nhà song song với nhau, thường được gọi là chùa hạ, chùa trung, chùa thượng, như kiểu chùa Kim Liên ở Hà Nội, chùa Tây Phương ở Hà Tây…
4.     Kiểu chùa nội Công ngoại Quốc: Một kiểu chùa khá phổ biến ở miền Bắc Việt Nam là kiến trúc có hai hành lang dài nối liền nhà tiền đường (hay nhà bái đường) ở trước với nhà hậu đường có thể là nhà Tổ hay nhà Tăng xá ở phía sau làm thành một hình chữ nhật bao quanh lấy các kiến trúc khác ở giữa. Kiểu chùa này gọi là nội công ngoại Quốc. Có nghĩa là phía trong có hình chữ Công (), còn phía ngoài có cái khung bao quanh như ở chữ Quốc. Tiêu biểu kiểu kiến trúc này là chùa Cầu (Hội An); chùa Keo (Thái Bình),...

 

5.     Chùa Tháp: Ở một số chùa có bố trí tháp Phật lớn ở trước mặt như chùa Dâu ở tỉnh Hà Bắc, chùa Phổ Minh ở tỉnh Hà Nam, nhưng một số chùa khác, các tháp lại ở hai bên chùa hay có vườn tháp riêng. Về cấu trúc của tháp Phật nói chung đều cấu tạo gồm 4 phần: phần ngầm, đế tháp, thân tháp và ngọn tháp. Phần ngầm có thể được xây theo hình vuông, lục giác, bát giác hoặc tròn; không gian ngầm thường nằm chìm hoàn toàn dưới mặt đất nhưng đôi khi có phần nằm trên mặt đất, phần phía dưới mặt đất (bán âm bán dương).
Đế tháp là phần tiếp giáp với mặt đất của tháp, đỡ toàn bộ kết cấu phía bên trên. Đế tháp được bổ sung thêm một bệ tháp với những trang trí lộng lẫy để cho kiến trúc trở nên hùng vĩ.
Thân tháp là phần chính của tháp. Thân tháp là dấu hiệu để phân biệt các phong cách kiến trúc. Ví dụ dựa vào vật liệu xây dựng thân tháp và thủ pháp sử dụng vật liệu người ta có thể chia thành: tháp gỗ, tháp gạch bên ngoài – gỗ bên trong, tháp lấy cột gỗ làm trung tâm, tháp với trụ gạch chính,…
Ngọn tháp là phần biểu thị cho cõi Phật vì vậy mà có vai trò rất quan trọng. Ngọn tháp thường có dáng thanh mảnh, là đầu chóp của công trình, nơi cố định rui xà, mái nóc và gờ mái, giúp ổn định kết cấu và ngăn không cho nước mưa thấm lọt vào bên trong. Ngọn tháp, bản thân đã là một tháp nhỏ với với 3 phần đế - thân – đỉnh với một cọc ở giữa. Đế thường gồm một bệ đặt trên một nền phẳng hoặc trên nền cánh sen. Trên phần thân của ngọn tháp thường có nhiều cái đĩa, tháp càng lớn thì đĩa càng lớn, số lượng đĩa thường là số lẽ. Trên chồng đĩa là một cái lọng. Trên đỉnh ngọn tháp là một mặt trăng lưỡi liềm và viên đá quý, đôi khi hạt đá quý được trên hoặc giữa một vật trang trí hình ngọn lửa. Vật liệu tôn tạo tháp phổ biến là đá tự nhiên và gạch nung. Đó là những phần kết cấu tiêu biểu nhất của ngọn tháp tuy nhiên ngọn tháp có thể thay đổi tùy theo những thời kỳ, địa điểm và phong cách tháp.
6.     Ngoài các kiểu chùa nêu trên có rất nhiều kiểu biến thể căn cứ vào địa hình Sơn, Địa, Hải đảo mà tạo ra các bố cục mang tính sáng tạo có giá trị cao về phương diện quy hoạch kiến trúc như kiểu chùa tiền Phật hậu Thánh đặc trưng ở chùa Thầy – Thạch Thất - Hà Nội. Chùa một mái, Chùa Một cột….Một số chùa khác bố trí gác chuông phía trước, gác chuông phía sau, chùa có gác chuông ngay trên cửa tam quan, có chùa gác chuông lại ở trên nhà Tổ.
Giải pháp quy hoạch kiến trúc 6 kiểu chùa nêu trên chủ yếu dựa vào hạng mục kiến trúc chính là Đại hùng Bảo Điện. Trong các chùa ngoài cụm kiến trúc này ra còn có những hạng mục khác như: 1. Nhà Tổ: Nơi thờ tượng và kỷ vật của các vị Cao tăng có công xây dựng và sáng lập chùa; 2. Tăng xá: Thuộc khu nội tự bao gồm các dãy nhà ở cho tăng ni; 3. Nhà Trù: Khu vực bếp nấu phục vụ cho tăng ni và phật tử; 4.Trai đường : Khu nhà ăn; 5. Vườn Tháp Tổ: Tổ hợp các tòa tháp lưu giữ xá lợi và di cốt của các vị tu hành sau khi đã viên tịch; 6.Nhà tọa soạn: Các dãy nhà phục vụ cho việc soạn lễ cúng dàng của thập phương Phật tử; 7. Gác chuông, gác chiêng; 8. Tam Quan: Tam quan là cổng vào chùa được cấu tạo bởi một tòa nhà với ba cửa ra vào. Có thể bố trí một tam quan ngoại và một tam quan nội …); 9. Ao, hồ sen: Góp phần tạo nên phong cảnh sơn thủy hài hòa, tươi đẹp; 10. Giếng chùa: Tạo ra bởi các mạch nước ngầm trong mát, kiến trúc giếng thường được xây dựng bởi các vật liệu như đá ong hoặc đá xanh tự nhiên, góp phần tạo nên điểm nhấn đẹp trong cảnh chùa; 11. Vườn cây, vườn hoa (còn gọi là Hoa viên). Tạo ra thế giới gần thiên nhiên, tĩnh lặng nhưng tươi đẹp, cây và hoa trong chùa phải được chăm sóc cẩn thận để phù hợp với cảnh chùa trang nghiêm và thanh tịnh; 12. Tịnh Thất: Căn cứ vào pháp môn tu hành của từng chùa mà bố trí các tịnh thất nhỏ tại các không gian yên tĩnh phục vụ cho việc tu hành.

II. Giới thiệu không gian nội thất chùa Việt Nam

          Như đã giới thiệu ở trên, chùa đa dạng thì Phật điện (còn gọi là Đại hùng Bảo Điện) cũng đa dạng không kém. Cách thức bài trí tượng thờ ở Phật điện Việt Nam cũng biến chuyển qua thời gian và không gian.
          Do lịch sử truyền nhập Phật giáo, phần lớn chùa Việt Nam là chùa Đại Thừa (Mahayana). Do đó, nhà chính điện cũng như các tòa nhà khác trong chùa, chúng ta thấy nhiều tượng Phật ( Buddha), Bồ Tát (Bodhisattva) cùng với các chư thánh tổ, thiện thần hộ pháp chư thiên khác. Bao gồm cả những tượng thần, tượng Mẫu theo các tôn giáo khác của tín ngưỡng dân gian. Giới hạn ở bài tham luận này chúng tôi chỉ mô tả cấu trúc Phật điện điển hình qua việc bài trí tượng thờ trong Chùa Việt. Nếu bố cục ngôi chùa theo kiểu” Nội công ngoại Quốc” là hình  thức phổ biến hơn cả thì nhìn chung chùa bao gồm một điện thờ hình chữ Công (), một dãy hành lang bao quanh ba mặt và một sân rộng. Khu trung tâm là điện thờ Phật của chùa, thông thường bao gồm ba ngôi nhà nằm kế tiếp nhau, lần lượt là nhà Thiêu hương – Thượng Điện – Nhà tổ, Mẫu…
Bài trí tượng trong tòa Thiêu hương:
1.       Ban Đức Ông ở bên trái tiền đường, tượng có y phục theo lối võ quan, hai bên tượng có hai vị thị giả.
2.       Ban Thánh hiền ở bên phải tòa Tiền đường, mặc áo cà sa vàng, đội mũ Liên hoa Thất Phật, chân dung hiền hòa, tươi tắn, bên cạnh có hai vị thị giả.
3.       Tượng Bát bộ Kim Cương: Là vị có phiếm thần, gồm tám pho tượng đứng hai hàng hai bên gian Thiêu hương là không gian thêm phần uy nghiêm. Các tượng có dáng đứng và chi tiết khác nhau nhưng đều mặc áo giáp trụ, mũ kim khôi, đi hia, cầm binh khí.
2.     Bài trí tượng trong tòa Thượng điện:
Tòa thượng điện còn gọi là Tam Bảo hay đại hùng bảo điện, gồm nhiều tượng phật đặt trên các bệ xây từ thấp đến cao, tượng trưng cho sự tu hành và đắc đạo của Đức Phật đồng thời biểu hiện các triết lý của Đạo Phật. Nghĩa của Đại hùng: Thắng nhân giả anh, Thắng kỷ giả hùng (thắng được mình mới là bậc địa hùng).
Hệ thống bài trí tượng phổ biến trong thượng điện (xem sơ đồ)
1.       Lớp thứ nhất: Trên cùng là tượng Tam thế, tên đầy đủ là Tam thế tam thiên Phật, nghĩa là Ba nghìn vị Phật thời quá khứ hiện tại tương lai, trong đó Thiên (ngàn) là con số phiếm chỉ không đếm được.
2.       Lớp thứ hai: Bộ tượng Di đà tam tôn mang tính chất tuyên ngôn cho Phật giáo bởi đại diện cho từ tâm và trí tuệ. Trong đó, Phật Adiđà ở giữa thể hiện tám tính (bát đại) phân thân biểu hiện thành ngài Quán Thế Âm Bồ Tát bên trái thể hiện bốn tính thuộc từ tâm là Đại từ, đại bi, đại hỷ, đại xả và  ngài Đại Thế chí Bồ tát thể hiện bốn tính thuộc trí tuệ, Đại hùng, đại lực, đại trí, đại dũng.
3.       Lớp thứ ba: Bộ tượng Thích ca niêm hoa, với mô hình Nhất Phật nhị tôn giả, Đức Thích Ca ngồi kết già ở giữa, tay giơ đóa sen, Maha Ca Diếp và ngài A nan thị giả ở bên trái và bên phải.
4.       Lớp thứ tư: Tượng tuyết Sơn mô tả quá trình bảy năm tu khổ hạnh trong núi Hymalaya không tìm được chân lý. Tạo hình tượng khắc khổ.

5.       Lớp thứ năm: Bộ tượng Di Lặc tam tôn có mô hình Nhất Phật nhị Bồ Tát.
6.       Lớp thứ sáu: Tòa Cửu Long ở giữa, bên trái là Đế Thiên, bên phải là Đế Thích. Tòa Cửu long này được xây dựng theo tích Thích ca sơ sinh – một trong bốn tích quan trọng trong đức Thích Ca ( đản sinh, xuất gia, thành đạo và nhập Niết bàn).
Ngoài sáu lớp bố trí tượng nêu trên trong Đại hùng Bảo điện còn tôn trí các pho tượng sau:
7.       Tượng Nam Tào, Bắc Đẩu: Phía trước tòa Cửu Long còn có tượng Nam Tào (mũ đỏ, quần áo đoe, mặt đỏ), Bắc Đẩu (Mũ đen, quần áo đen, mặt đen). Sự xuất hiện hai vị tinh quân này trên Phật điện là do tư duy nhân gian.
8.       Tượng Thập điện Diêm Vương: Hai bên Phật điện còn có tượng Thập điện Diêm Vương cai quản mười cửa điện. Tạo hình các vị này theo lối Hoàng đế, mũ bình thiên, áo cổn, đi hia, tay cầm hốt ngồi trên ngai.
9.       Tượng các vị Tổ kế đăng ( dân gian quen gọi là tượng La Hán): thường được thờ ở hai dãy nhà dọc theo thượng điện.
10.   Tượng Quan Âm thị kính thể hiện ở hình tướng nữ nhân, ngồi trên núi, tay bế đứa trẻ, chân đặt trên hòm chữ nhật, phía sau có con vẹt.
11.   Tượng Quan Âm thiên thủ thiên nhãn có sự tích từ truyện nàng chúa Ba Diệu Thiện hóa thân thành ngàn mắt ngàn tay. Tượng này thường có hình tướng nữ nhân, các búp tay ống tơ xòe ra, ở dưới có Rồng hay Quỷ đội tòa sen.
12.   Tượng Thổ Địa: Canh giữ cửa chùa
13.   Tượng Giám Trai: Kiểm tra sự thanh tịnh của lễ Phật
14.   Tượng các Tổ chùa: được tạo hình với chân dung cụ thể, xuất phát từ các vị sư tổ khai dựng hoặc có công với chùa, luôn trong y phục tu hành, thần thái từ bi, trang nghiêm, uy nghi và minh triết nhưng mang cá tính khá rõ nét.
15.   Các tượng Hậu, lại thể hiện lối ứng xử uống nước nhớ nguồn của người Việt, tạo hình theo nhân vật lịch sử có công xây dựng chùa.

Phần II:

Kiến trúc Chùa điển hình

Căn cứ vào thực tế hiện trạng, một ngôi chùa muốn xây mới, tu bổ hay mở rộng sẽ chịu ảnh hưởng quyết định bởi nhiều yếu tố khác nhau về quy mô, địa hình, khí hậu, nhu cầu sử dụng…Sự ảnh hưởng đó tạo nên bản sắc với nét đặc trưng riêng của từng ngôi chùa.
Tuy nhiên cấu trúc một ngôi chùa luôn phải tuân theo các nguyên tắc chung sau:

I. Định hướng quy hoạch

1.     Nguyên tắc Chọn đất và ngày tốt giờ tốt: Theo quan niệm xưa nay việc chọn đất và hướng xây dựng mở rộng chùa có một ảnh hưởng to lớn đối với con người sống trên đó. Kinh nghiệm cho thấy đất xây chùa tốt là nơi bên trái trống không hoặc có sông ngòi, hồ ao ôm bọc. Bên phải có núi hay công trình phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc có hình hoa sen, tràng phan, bảo cái, hoặc có hình rồng phượng, quy xà chầu bái. Thủy thì nên chú ý thủy khứ, thủy lai, thủy (nước) nên chảy quanh sang trái. Thế đất trước mặt nên tạo khoảng trống làm minh đường. Tiền minh đường là hướng trước mặt nếu có lưu thủy dòng chảy, có tụ thủy thành hồ ao lại thêm tốt. Hậu ngai tọa (phần không gian phía sau chùa) không cần phải có thế núi áp kề nhưng cần nhất phải có khoảng đất rộng sau lưng Chùa là cách có Địa Hậu thì những vị trụ trì ở đó sẽ được cách tương lai có nhiều đệ tử tốt kế tục được sự nghiệp của mình.
Việc chọn ngày giờ tốt để tiến hành khởi công xây dựng mở rộng nên theo các phép xem ngày giờ được lưu truyền lại chọn ra ngày giờ phù hợp thuận tiện cho việc mở đầu và kết thúc được viên mãn.
2.     Hướng Chùa căn cứ vào hiện trạng mà bố trí để thuận cho việc giao thông. Thông thường hướng Chùa được bố trí theo ba hướng sau:
-  Hướng Tây: Là hướng về đất Phật lịch sử, là hướng chung của các ngôi chùa cổ như: Chùa Dâu, Chùa Phật Tích, Chùa Pháp Vân,Chùa Chân Tiên…
- Hướng Nam (Từ Hướng Đông Nam đến Tây Nam), đây là hướng phù hợp với các vùng địa lý có khí hậu khắc nghiệt. Bố trí hướng chùa theo các hướng Nam để tránh rét về mùa đông có được sự mát mẻ về mùa hè.
- Hướng Đông: Đa phần các chùa Tiểu Thừa Khơme Nam bộ bố trí hướng chùa về hướng Đông, đây là hướng nhìn của đức Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật khi ngài đắc đạo tại cội Bồ Đề.
Như vậy dù là hướng Tây, Nam Đông khi định vị các hạng mục cần tuân theo quy hoạch tổng thể đã định trước, theo một số sách cổ để lại căn cứ vào hướng chính chú ý chọn kỹ để được hướng thuận về Thiên- Địa - Nhân gọi là hướng Bảo Châu.Tóm lại: Quy trình chọn hướng, thế đất và ngày giờ tốt phải được coi là phương tiện để cho mọi việc được thuận lợi và có kế hoạch rõ ràng, tạo nên tinh thần quyết tâm cao nhất trong việc xây dựng tu bổ Chùa.

II. Thiết kế kiến trúc Chùa điển hình với các nguyên tắc căn bản

Bố cục trong kiến trúc chùa truyền thống Việt Nam cũng như các công trình khác đều tuân theo một số quy luật và nguyên tắc tạo hình là thống nhất và biến hoá, tương phản và dị biến, vần luật và nhịp điệu. Cụ thể:
1.     Bố cục kiến trúc: Tổng thể khuôn viên chùa thường được bố trí đăng đối qua một trục (gọi là trục Chính Đạo hoặc được bố trí xoay quanh một tâm điểm ( Tháp Phật, đài Quan Âm) tạo sự cân bằng, trang nghiêm bề thế cho công trình. Ngay trong mặt bằng công trình cũng được bố trí hợp khối từ những hình chữ nhật để tạo nên sự cân bằng và ổn định. Bố trí tượng thờ trong mặt bằng cũng thường được bố trí đăng đối qua trục. Ðối với các công trình phụ khác trong khuôn viên, thông thường nếu có đủ diện tích thì người ta cũng xây dựng theo kiểu đối xứng. Tuy nhiên tuỳ theo địa hình và nhu cầu xây dựng mà có những thay đổi phù hợp. Với các công trình như vườn tháp, gác chuông lại có dạng bố cục hướng tâm, mặt bằng có thể là hình vuông, hình lục giác, hình bát giác hoặc hình tròn.
2.     Nguyên tắc trọng điểm của việc thiết kế bố cục kiến trúc chùa: Phần kiến trúc chính (Đại Hùng Bảo Điện) nằm trên trục chính Đạo bao giờ cũng rộng nhất và thường cao nhất được tập trung mọi tinh hoa kiến trúc và nghệ thuật.
3.     Ðặc thù nghệ thuật trong tạo hình kiến trúc nói chung và chùa được biểu hiện rõ nét ở mối tương quan tỷ lệ. Tỷ lệ chính trong bản thân, giữa cái lớn cái bé, cái chung cái chi tiết, tỷ lệ giữa các chiều trong không gian,... Và được thể hiện cả ở mối tương quan giữa công trình với môi trường xung quanh, với thiên nhiên cảnh quan. Trong kiến trúc chùa truyền thống không có các công trình kiến trúc đồ sộ. Các công trình có kích thước tương đối lớn cũng gắn bó hoà hợp với thiên nhiên và con người, không có tác động thống trị và áp đặt lên thiên nhiên và con người.
4.     Về mặt bằng: hầu hết các hạng mục công trình Chùa đều tổ hợp từ hình chữ nhật với các gian lẻ. Các tỷ lệ giữa thành phần kết cấu nhà với nhau bao giờ cũng có một sự tương quan kích thước nhất định mang đến sự hài hoà. Về không gian chùa được xây dựng bằng vật liệu gỗ chủ yếu được quyết định bởi các bộ vì. Bộ vì được hình thành bởi 6 cây cột (2 cột cái, 2 cột quân và 2 cột hiên) hoặc 4 cây cột ( 2 cột cái và 2 cột quân). Vì kèo có tỷ lệ đứng / ngang = 2/3 tạo thành độ dốc i = 66,6 %.
5.     Nguyên tắc liên hệ và phân cách: Sự liên hệ và phân cách thể hiện qua các bộ phận, các thành phần kiến trúc khác nhau và rõ nhất là yếu tố hình khối thiên nhiên và kiến trúc công trình tương đối độc lập nhưng nhờ không gian mở của hàng hiên, của các dãy nhà hành lang, làm yếu tố chuyển tiếp đã khiến không gian vườn như ăn sâu vào công trình. Sự liên hệ ở đây còn được thể hiện bởi các dãy hành lang kết nối các hạng mục công trình chính để đảm bảo cho một liên kết chặt chẽ về không gian và thích dụng.
6.     Yêu cầu về nhân chủng học và nhu cầu hoạt động của con người kết hợp với đặc tính của gỗ, quy mô không gian do kết cấu gỗ tạo nên... đã đạt được tính tỷ lệ về con người và kiến trúc. Một số chùa không có khả năng sử dụng gỗ có thể thay thế bằng kết cấu bê tông cốt thép. Cho dù dùng loại vật liệu gì chăng nữa Tỷ lệ không gian của công trình cần phải đáp ứng và tuân thủ để đạt được sự gần gũi và gắn bó với hoạt động của con người.

III. Vật liệu và kỹ thuật xây dựng chùa

Hiện nay được sử dụng là các chủng loại phù hợp với môi trường khí hậu tại địa phương, từ tre, tranh, gạch ngói, bê tông, đá, gỗ, Các công trình truyền thống thường sử dụng vật liệu gỗ ( thường gặp gỗ lim, gỗ đinh, gụ, táu... cho hệ thống kết cấu khung cột, hệ thống cửa, rui hoành... Ðá thường được sử dụng là đá nguyên khối từ đá ong, đá sa thạch, đá xanh... sử dụng trong nền, bậc cấp, chân tảng. …
Vật liệu đất nung được sử dụng và chế tác thành các sản phẩm đáp ứng các mục đích sử dụng khác nhau. Ví dụ, mái các công trình lợp ngói lòng máng như âm dương, ngói ống ... và mái lợp ngói bản như ngói mũi hài, vẩy rồng, vẩy hến, ngói di, ngói liệt là dạng mái nhiều lớp, dưới cùng là lớp ngói lót, trên là các lớp ngói chính được xen chồng lên nhau để che mưa nắng. Tường tại các công trình chùa thường là tường gạch nung, gạch  hỗn hợp vôi đất, xi măng, đá ong. Gạch bát được sử dụng để lát nền sân, hiên... Gạch trang trí phủ ngoài mặt tường, tháp, gạch nung sành để làm tháp mộ, gạch xây cột vuông...
Ðối với kết cấu bê tông bắt đầu thấy xuất hiện từ cuối nhà Nguyễn thời kỳ thuộc Pháp, điển hình là cụm di tích Hưng Ký và trang trí trên mặt đứng hay trên kết cấu đều được làm bằng sứ, gỗ và ghép liền với mặt bê tông của kết cấu. Giải pháp sử dụng bê tông cốt thép sẽ tạo ra quy mô chùa lớn với khả năng vượt khẩu độ không giới hạn tạo ra các không gian đủ lớn đáp ứng nhu cầu hoằng pháp cho rất đông người trong cùng một thời điểm.
Ngoài người Kinh, một số dân tộc thiểu số khác ở Việt Nam cũng có chùa. Chùa người Mường làm bằng tre đơn giản. Chùa người Khơme được xây dựng đẹp, có bộ mái biểu hiện ảnh hưởng Campuchia và Thái Lan. Chùa người Hoa thường tạo hình với chất liệu tô vẽ mang sắc thái kiến trúc riêng. Thông thường thì vật liệu xây dựng chùa là các vật liệu tốt nhất có thể được.
          Giờ đây với sự phát triển đa dạng của công nghệ vật liệu xây dựng mới, việc tu bổ cải tạo, mở rộng chùa cũng như xây dựng mới ảnh hưởng bởi chất liệu xây dựng tiên tiến nên chùa Việt Nam có thêm nhiều giải pháp xử lý về mặt kết cấu cũng như bề mặt hoàn thiện. Tổng hợp các yếu tố mới này đã tạo ra tính đa dạng của kiến trúc chùa Việt Nam đương đại.

IV.Kỹ thuật xây dựng.

Yêu cầu về Ðộ bền vững là một đặc trưng chính của các công trình kiến trúc Chùa. Bí quyết làm cho các kiến trúc gỗ bền vững, bên cạnh việc chọn vật liệu (gỗ to, gỗ tốt, đá cứng hay gạch nung già). Trong kiến trúc gỗ nhân tố cơ bản chống đỡ kiến trúc là các bộ vì. Bộ vì được hình thành bởi các cây cột, hệ thống liên kết cột và là sự kết hợp hài hoà hai yếu tố là lòng nhà và độ chảy của mái nhà. Sau đó, người ta nối các vì với nhau bằng hệ thống xà ăn mộng qua các cột. Lực ép và sức nặng của toàn bộ mái nhà dồn xuống các đầu cột. Các câu đầu, xà nách, kẻ, bẩy, các đầu dư, đầu nghé hợp lý cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ cân bằng và gánh đỡ kiến trúc của bộ vì.
Ngày nay việc kết hợp giữa kinh nghiệm truyền thống với sự tính toán hợp lý của công nghệ máy tính hiện đại về cả hình học, vật lý, cả về mỹ thuật và kỹ thuật thi công xây dựng. Ðó là giá trị về tính toán cho kiến trúc chùa luôn nằm trong thế cân bằng và ổn định.

VI. Màu sắc trong kiến trúc Phật Giáo

Màu sắc của chùa dùng màu tự nhiên của vật liệu xây dựng, màu nâu đỏ của mái ngói, màu nâu của kết cấu bộ vì, vách gỗ, màu xám nhạt của chân tảng, của bậc thềm đá... Màu vôi trắng của tường đầu hồi hoặc màu tự nhiên của các hàng gạch xây tường miết mạch không trát. Các hoạ tiết đôi lúc được trang trí bằng màu, màu xám nhạt của bờ nóc, bờ dải, bờ guột và đầu đao góc mái. Một số dạng màu thường được sử dụng trong các công trình để tạo nên sự tương phản về độ sáng. Ví dụ như gam màu trắng của tường quét vôi là sáng trong khi gam nâu sậm của gỗ là tối, hoặc gam đỏ sậm của gạch trần là tối nổi lên khoảng trắng của cửa sổ là các hình chữ Vạn hoặc biểu tượng sắc - không đắp vữa...
Ngoài màu tự nhiên của vật liệu, một số công trình còn sử dụng màu vàng và đỏ của đồ gỗ sơn son thếp vàng. Các gam màu vàng đỏ có thể bắt gặp ở bất kỳ một công trình chùa nào trong các đồ thờ, tượng, hoành phi... Màu vàng son với ánh sáng đèn, nến, hương khói mờ ảo tạo nên một không gian linh thiêng hơn, vừa thực lại vừa hư, thể hiện triết lý vô vi của nhà Phật.
Một số chùa việt qua giao lưu văn hóa học tập các nước bạn, do đó có thể nhận thấy màu sắc khác nhau trong một số công trình. Cột phủ sơn mài thếp vàng và vẽ hình mây, rồng cuốn với hai màu vàng đỏ là chủ đạo, vẽ bột màu trên các hoa văn trang trí với màu sắc sặc sỡ ...
Chùa truyền thống ba miền Việt Nam có một nét chung là ánh sáng trong chùa rất ít, chủ yếu là sử dụng ánh sáng khúc xạ và phản quang thông qua các bộ phận như cửa sổ, cổ diêm hoặc thiên tỉnh và ánh sáng nhân tạo là đèn, nến... Ðiều này là kết quả của việc quan niệm nơi thờ Phật thì phải linh thiêng, huyền bí, trang nghiêm, kiến trúc như vậy phải u trầm tĩnh mịch tạo một tâm lý tôn kính cho con người bước chân vào nơi cửa Phật.

VII. Trang trí, điêu khắc công trình.

Bố cục trong một tác phẩm điêu khắc là thước đo lớn nhất cho sự thành công của tác phẩm. Trong kiến trúc cổ, ta thường gặp bố cục theo kiểu cân xứng ( những cặp rồng, những hoa văn hoạ tiết đối nhau...). Bố cục hướng tâm ( có hoa văn trung tâm trong một khung khép kín), bố cục hình dải gọi là hồi văn ( hoa cúc, dây hình chữ vạn, pháp khí...)
Kiến trúc chùa sử dụng điêu khắc và hội họa từ các hoa văn, đề tài trang trí mang đậm ý nghĩa tượng trưng góp phần vào việc giác ngộ chúng sinh bởi các điển tích được nói đến trong kinh Phật, như là một yếu tố phụ trợ tăng tính nghệ thuật đồng thời diễn đạt ý nghĩa biểu trưng, mang đậm triết lý nhà Phật.


Kết:

Trên đây chúng tôi mô tả mang tính khái quát các vấn đề cốt lõi của Quá trình thiết kế xây dựng và tu bổ Chùa. Căn cứ vào hiện trạng cũng như nhu cầu ngắn hạn và dài hạn, trước khi bắt tay vào triển khai phải cân nhắc cẩn trọng trong việc quy hoạch định hướng tổng thể. Việc làm thiết thực này sẽ tránh được sự lãng phí không cần thiết.
Theo dõi bước đi của ngôi chùa Việt Nam qua suốt chiều dài lịch sử, chúng tôi thấy rõ ở mỗi thời kỳ, các ngôi chùa, ngọn tháp đếu có một kiểu dáng riêng biệt. Bao giờ cái truyền thống cũng gắn với cái hiện đại, việc tiếp thu các kiểu kiến trúc của các chùa tháp trên thế giới cũng như các giải pháp sáng tạo có được bắt nguồn từ công nghệ vật liệu và công nghệ xây dựng mới cần phải chú ý để không làm mất đi bản sắc dân tộc. Cái bản sắc dân tộc ở đây phải được nhìn nhận là sự phù hợp với con người và tư duy thời đại mới ở sự cảm nhận về mỹ thuật, về kiến trúc kết hợp với nhu cầu sử dụng. Đây là bài toán khó, nhưng ông cha ta đã làm được. Âu cũng là điều chúng ta phải suy nghĩ trong hiện tại.


Bài tham luận có sử dụng tài liệu từ các nguồn sau:
- Tạp chí Chùa Hương – Hà Nội năm 2012
 - Ấn phẩm Chùa Việt Nam  - Nhà xuất bản Khoa học Xã Hội, Hà nội
- Nguồn z6.invisionfree.com
- Nguồn Hauhocquangkien.com
- Hình ảnh thiết kế Công ty CP Đại Nhật – ( Nhóm Phật tử Đạo tràng Chân Tịnh – Chùa Hương Hà Nội)