Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

Thiền Dục giới (Luân Xa)

1. Thiền Dục giới:

(Thiền dục giới là thiền ở các cõi còn ái dục như người, trời, thần, quỷ )

Là các phép tu luyện như ăn kiểu riêng, uống kiểu riêng, chế thuốc bổ kiểu riêng, luyện tâp bùa chú riêng... nhằm mục đích có các phép thần thông ở Dục giới. Trong các phương pháp ấy, hiện nay phổ thông nhất là phép tu luyện Luân-xa. Luân xa là các huyện đạo trên cơ thể người. Tất cả có 12 luân xa tương ứng với 12 giờ trong một ngày trên cơ thể. Luyện khai mở Luân xa chủ yếu là các huyệt ở phía trước cơ thể, có 7 luân xa gồm: 

- Luân xa số 1 gọi là huyện Hội âm, thành tựu hay gọi là khai mở thì đắc phép Thần Túc Thông.

- Luân xa số 2 là huyện Đan Điền (cách rốn 2 đốt ngón tay ) khai mở được luân xa này thì đắc phép Túc mệnh Thông.

- Luân xa số 3 là huyệt Đản Trung (giao giữa ngực và hai núm vú ), khai mở được thì thành tựu phép Tha tâm thông.

- Luân xa số 4 là huyệt Thiên Đột (ở hõm cổ ) thành tựu thì sẽ đắc pháp Thiên Nhĩ Thông.

- Luân xa số 5 là huyệt Ấn đường (giao giữa hai lông mày và sống mũi ) khai mở huyệt này đắc phép Thiên Nhỡn Thông.

- Luân xa số 6 là Huyệt Cự Khuyết (ngay lỗ rốn ) Khai mở được luân xa này thì hỗ trợ tăng thêm cho phép Thần túc Thông.

- Luân xa số 7 cuối cùng là huyệt Bách hội (giao giữa hai lỗ tai và đường đỉnh đầu chính giữa) thành tựu Túc Mạng Thông.

Việc tu luyện khai mở 7 luân xa này nếu ăn thịt uống rượu và ăn hành tỏi hẹ kiệu là ngũ vị tân thì sẽ bị mắc sai lầm mà người ta thường nói đùa là " tẩu hoả nhập ma", cụ thể sẽ mắc bệnh hoang tưởng hoang đường, lúc nào cũng tưởng mình là thần là thánh cuối cùng sẽ chết vì hoang tưởng đó, bệnh thứ hai là bị kích thích dâm dục quá độ thành ra cuồng loạn dâm.

                  Trong các bộ kinh Trung bộ, trường A hàm, tăng nhất A hàm, Tạp A hàm và các bộ kinh Đại Thừa Đức Phật có kể lại câu chuyện có một nhóm người tu khai mở luân xa thành công đã bay được trên trời, thế nhưng một số ông tiên (Ấn độ gọi là các vị thuật sỹ) có dặn rằng: Khi đang luyện các phép bay trên trời thì đừng sinh tâm tham tài sắc danh thực thuỵ là ngũ dục thế gian, nếu sinh ra sẽ bị mất phép thần thông. Ví dụ vào đời quá khứ có ông Vua bắt tất cả các cung nữ khoả thân múa cho ông ấy xem, ông ấy vỗ tay có vẻ sung sướng lắm. Lúc bấy giờ có một đoàn người đã luyện tập bay được trên trời là đã thành tựu phép mở luân xa Thần túc thông. Bay qua đó sinh tâm thèm khát ái dục lập tức bị mất phép thần thông ngã từ trên cao xuống nặng thì bể đầu chết nhẹ thì gãy hết chân tay tàn phế. 

                  Đó là cái đau khổ thứ nhất của thần thông dục giới là phép khai mở luân xa. Hiện nay bên Tây tạng gọi phép luyện này là "suối nguồn tươi trẻ". Cái đau khổ thứ hai là sinh ra loại người tu khổ hạnh khoả thân trần truồng đi ăn xin, bọn này gọi là phái tu Ni can đa, thuộc lục sư ngoại đạo. Vì trần truồng nên suốt đời bị ruồi muỗi rắn rết đốt nên rất nhiều người bỏ mạng oan uổng hoặc bị thương tật hoá thành bệnh thần kinh.

                  Đó là hai cái đau khổ của thiền định Dục giới.

                  Đức Phật có nói: thân chúng sinh đã bất tịnh thì các luân xa cũng bất tịnh như thân chúng sinh. Tại làm sao lại dựa vào cái uế tạp để tu luyện. Dù có thành tựu thì khi cái thân tan rã thì cái thần thông đó ko còn chỗ dựa cũng mất theo đến đời sau lại phải tu luyện lại từ đầu. Gọi là cực kỳ dại dột. Cũng như luyện nhân điện, có người cũng biết được chuyện này chuyện kia ở tương lai. Có ngươi bị sét đánh, sau khi bị sét đánh thì có luồng điện trong người thì biết được một số chuyện nhưng phải chịu một số bệnh, hoặc là mù loà, hoặc là ốm yếu. Bình thường thì bị bệnh thần kinh, thỉnh thoảng nói ra được một số chuyện người ta nghe người ta thích thì người ta cho ít tiền đồ ăn nhưng suốt đời nghèo khổ có cuộc sống không bình thường, thậm chí mù mắt như bà Vanga người Bungary. Như vậy luyện năng lượng cũng là một phép luyện luân xa, được thì ít mất thì nhiều. Phật dạy những người như vậy là vô cùng dại dột, cực kỳ ngủ si.

                                    Trên đây gọi là phép tu thiền định Dục giới, trong kinh Thủ lăng nghiêm thuyết là 10 phép tu tiên. Phép tu dựa trên sự giả dối của các huỵệt đạo luân xa thì cái quả cũng là giả dối. Mà giả dối là đau khổ.

...còn tiếp...

Phần 2 ( Thiền sắc giới)


(Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng)

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2024

PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG PHẬT GIÁO



A. Các Pháp thế gian = Hữulậu = Hữu vi


Các Pháp này bao giờ cũng có bốn phần:

1. Thấy vấn đề = Kết quả cuả vấn đề: 

Đây là các kết quả tốt gọi là thiện hữu lậu là ba cõi Thiên, Nhân, Atula.
Và các kết quả xấu là ba cõi Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh.

2. Nguyên nhân của vấn đề = Nhận thức vấn đề:

Nguyên nhân của các kết quả tốt ở người là giữ được Ngũ giới
Nguyên nhân của Atula là giữ chưa trọn vẹn ngũ giới, thích đấu tranh quá mức độ do đó phạm vào giới sát nhiều.
Nguyên nhân của Cõi Trời dục giới là thực hành được 10 điều thiện.
Nguyên nhân của Thiên Ma ba tuần (Ác ma) ở cõi trời Tha hóa tự tại thứ 6 dục giới là tuy làm được 10 điều thiện nhưng lại xen kẽ phạm giới bất tà dâm mà có cõi này.
Nguyên nhân của các cõi trời sắc giới là tu 10 điều thiện nhưng có phần hơn là diệt trừ hoàn toàn khả năng tình dục.
Nguyên nhân của các cõi trời Vô sắc giới là cũng như các cõi trời sắc giới nhưng mắc cái lỗi là chấp sự rỗng không hư vô, dễ mắc đến đoạn diệt kiến tà đạo. Do đó hết kiếp ở cõi trời vô sắc giới thì lại quay lại dục giới như cũ.

3. Phương pháp giải quyết vấn đề:

Ở cõi người phải thành tựu tinh thông 5 nghề: Sĩ (trí thức), Công (công nghiệp), Nông (Nông nghiệp), Thương ( thương mại). Và binh (Quân sự). Tất cả 5 nghề này phải tinh thông kèm theo giữ nghiêm ngũ giới.
Ở các cõi trời dục giới thì giữ nghiêm việc thực hành 10 điều thiện nhưng phải biết quy y Tam bảo để có hướng tiến lên tốt ở đời tương lai.
Ở các cõi trời sắc giới thì cũng như các cõi trời dục giới nhưng phải làm thêm việc tu học theo tứ niệm xứ của tiểu thừa Phật Pháp thì tương lai sẽ tu hành tốt theo tiểu thừa Phật pháp.
Ở các cõi trời vô sắc giới thì cũng như các cõi trời sắc giới nhưng phải phá cái chấp hư vô rỗng không để đời kiếp sau tu theo tiểu thừa khi được quay lại làm người.

4. Kết quả của việc làm đúng theo phương pháp giải quyết vấn đề:

Ở cõi người thì thành tựu được: Phú Quý Phúc Lộc Thọ
Ở cõi trời dục giới thì hết kiếp quay lại làm người sẽ tu học theo Phật pháp được viên mãn trong các đời tương lai.
Nếu ở cõi Ma vương ba tuần thì sẽ thoát nghiệp ma, quay lại kiếp người tu học theo Phật Pháp được viên mãn.
Ở các cõi trời sắc giới thì sau khi hết kiếp, quay lại làm người sẽ thành công việc tu theo tiểu thừa Phật pháp. Riêng những người thượng căn ở đệ tứ thiền sắc giới sẽ đắc quả Alahan ở cõi đó nhờ được sự giáo hóa của đức Phật Lô Xá Na là viên mãn báo thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ở các cõi trời vô sắc giới nếu thực hành đúng phép tu theo tiểu thừa thì kiếp sau quay lại làm người sẽ gặp minh sư thiện hữu giáo hóa cho tu theo tiểu thừa thành công. Những người này sẽ thoát khỏi quả báo ác là bị đọa địa ngục do cái nghiệp chấp hư vô rỗng không gây ra.

(còn nữa)

B. Các pháp xuất thế gian tiểu thừa và trung thừa với việc đặt vấn đề và giải quyết vấn đề

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2024

A LAN NHÃ


Trong bài thơ ngắn này, chúng ta sẽ được dẫn vào chốn A Lan Nhã, nơi tâm hồn được mở rộng và tĩnh lặng. Bài thơ kể về sự tự giác, tu pháp và lòng từ bi, mang đến sự thanh thản và bình an cho cuộc sống. Mời bạn cùng khám phá những dòng văn tinh tế và sâu sắc về đạo Phật. ( lời giới thiệu của Evernote AI)

Chốn A Lan Nhã
Tâm rời vội vã
Quán pháp sâu xa
Một là tất cả.

Chốn A Lan Nhã
Tự giác, giác tha
Tu pháp Phật Đà
Từ Bi Hỷ Xả.

Một là tất cả
Sống đời vị tha
Phá ngũ ấm ma
Đắc Tát đát đa.


(Hình ảnh và bài thơ là nơi Quảng kiến ẩn tu tại Paske Lào năm 2012)

Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2024

Pháp thân thanh tịnh kệ

Bài Pháp thân thanh tịnh kệ của Lục Tổ Huệ Năng như sau:
Pháp thân Phật một mô dạng
Nhất khối viên quang hàm vạn tượng
Vô thể tri thể Tức chân thể
Vô tướng tri tướng Tức thật tướng
Vô dị Vô đồngVô hữu vô
Nan xả nan thủ nan thính vọng
Nội ngoại linh quang đáo xứ đồng
Nhất thân trụ tại sát trần thân
Nhất nhất biến lễ sát trần Phật
Nhất Phật quốc tại nhất sa trung
Nhất lạc sa hàm đại thiên giới
Nhất cá thân tâm vạn pháp đồng.

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024

ĐỊA LÝ HỒ THỦY TIÊN THÀNH PHỐ HUẾ



NĂM RỒNG BÀN VỀ RỒNG...ở Huế

Huế có một con rồng được xây dựng trên hồ Thủy tiên trong đồi Thiên an. Hiện nay đang là "linh vật" được giới trẻ chụp hình bắt trend Giáp Thìn. Năm 2016 tờ báo CNN của Mỹ đã giới thiệu về một địa điểm ma mị vô cùng đặc sắc mang tên Hồ Thủy Tiên. "sau bài báo này, khu du lịch bị bỏ hoang này lập tức thu hút khách nước ngoài đến check in vẻ đẹp đầy ma quái, rùng rợn của công viên".
Cảnh quan Hồ Thủy Tiên trước khi xây dựng vốn là một khung cảnh tự nhiên tuyệt đẹp bao bọc, với hồ nước trong vắt chưa khi nào bị cạn, nằm trên đồi Thiên An - nơi được mệnh danh là " Đà Lạt xứ Huế".
Bài viết này nhằm trả lời câu hỏi của một số người bạn về việc tai sao sau khi xây dựng con rồng trên hồ Thủy Tiên thì hồ thường xuyên bị cạn nước?.
Giới hạn ở bài nghiên cứu này chúng tôi căn cứ vào cách xem Thiên văn, Địa lý và Nhân sự là những vấn đề với các khái niệm có thể cùng nhau chấp nhận và thấu hiểu, gọi là dựa trên khoa học thường nghiệm.
Xét về thiên thời năm xây dựng công viên hồ Thủy Tiên từ Canh Thìn đến năm Tân Tỵ (2000-2001) ứng với câu sấm ký của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“ Rồng vào bể cạn có ai hay
Rắn mới hai đầu khó chịu thay…”
“Rồng” ứng với xây dựng con rồng bê tông, “bể cạn” ứng với năm Canh Thìn thuộc kim khí ứng với đầm cạn nước.
“Rắn mới” ứng với năm can chi Tân Tỵ (năm dương lịch 2001, Tân là mới, Tỵ là rắn).
Bài kệ như là dự đoán sự tướng nước trong hồ khô cạn và việc kinh doanh hoang tàn của dự án.
Tuy nhiên Thiên thời vốn xoay vần, nên hết xấu sẽ đến tốt, tại sao qua cái vận khó (22 năm kể từ ngày khởi công) mà vẫn chưa thông, chúng ta cần xét thêm vấn đề ở Địa lý.
Thông qua bình đồ tính toán (hình kèm theo bài), Hồ Thủy Tiên có hướng (trục mạch chảy) từ Tây Bắc xuống Đông Nam là cách vượng thủy khí, thủy sinh mộc nên xung quanh hồ xưa nay cây cối rất tươi xanh. Tại hai đầu trục là vị trí đắc địa và vượng địa của hồ. Không hiểu sao lại xây dựng con rồng ở vị trí long mạch (vượng địa) hướng Đông nam. Và ở vị trí Tây Bắc (đắc địa) thuộc Thủy khí lại xây dựng công trình cao có khối tích Thổ khí tạo ra sự xung đột về mặt Địa lý.
Vạn vật vốn vô tình, chỉ có tâm người hữu ý, ngoài Thiên thời và Địa lợi yếu tố Nhân hòa rất quan trọng để cho cấu trúc các công việc hay dự án được hoàn chỉnh và phát triển bền vững. Nhân hòa lại ở biệt nghiệp riêng của chủ sở hữu. Phần này do chưa có thông tin nên chưa tính rõ, nhưng thông qua kết quả kinh doanh hiện nay thì cũng phần nào dự đoán được Nhân hòa hiện ở trong đại vận kém.
Một số nhận xét theo thiên văn địa lý sơ bộ ở trên tạm để tham khảo và giải đáp, cũng là để trao đổi kiến thức về Địa lý với mọi người.
Mong sao sự thay đổi tới đây của UBND Thừa Thiên Huế về cải tạo dự án sẽ mang lại sắc màu xanh và trong trở lại cho khung cảnh tuyệt đẹp của hồ Thuỷ Tiên.

Thứ Hai, 12 tháng 2, 2024

THỎ NGỘ THANH LONG 2024




“Như thị ngã văn 

Chúng sinh đa nạn

Nhị thập nhật minh

Thỏ ngộ Thanh long

Kê khuyển ngộ xà

Địa tạng bồ tát

Tróc nã chư ma

Mười phương tôn phục

Tứ phương quy gia. “

     Đầu năm luận giải bài kệ sấm ký của Ngài Tuệ Trung Thượng sỹ, là thầy của Ngài sơ tổ Trúc Lâm (vua Trần Nhân Tông). 

     Năm 2024 có can chi Giáp Thìn là năm thanh long, ngày đầu năm mùng 1 cũng là ngày Giáp thìn, sự trùng lặp này theo lịch can chi 700 năm mới có một lần. Hiếm nên là quý, quý thì tốt. 

Nội dung dự đoán về vận hạn liên quan đến nước ta. 

Bài kệ nói đến “ thỏ ngộ thanh long” là ý nói đến từ năm Canh Tý (xưa gọi là Thỏ, sau này theo lịch can chi Tàu đổi thành Tý ) đến năm Giáp Thìn (2020-2023) chúng sinh đa nạn, ứng với khó khăn chung của thế giới về dịch bệnh, khó khăn kinh tế và bất ổn về chính trị. “ Địa tạng bồ tát tróc nã yêu ma” có nghĩa là có nhiều kẻ xấu phạm luật pháp bị bắt xử. Câu “ tứ phương quy gia” là nói đến từ năm 2024 sẽ có nhiều người nhiều tổ chức kinh tế xã hội ở khắp trên thế giới đặc biệt là những người gốc Việt sẽ quay về đầu tư phát triển tại nước Việt Nam. 

    P/s: bài thơ chúc tết mình sáng tác trong hình, cuối năm thường viết dạng liễn thư pháp để treo trong nhà bên nội ngoại và tặng người hữu duyên.