Thứ Hai, 10 tháng 9, 2012

Bàn về Giác Ngộ



GIÁC NGỘ , GIẢI THOÁT
------------------------------------
GIÁC rồi thấy sự vô - thường,
NGỘ bao vọng niệm vẫn thường che Tâm.
GIẢI đi những kiến thức lầm,
THOÁT vô minh đã giam cầm Chân Tâm.
( Quảng Kiến)

Phần 1: Bàn về Giác Ngộ
Chúng ta thường bàn về giác ngộ, vậy là giác ngộ cái gì?  Đối với con người chúng ta thì có thân và tâm. Thân tâm cũng như vạn vật trong pháp giới được cấu tạo bởi bảy đại: địa thủy, hỏa, phong , không, kiến, thức. Trong đó hai đại Kiến và Thức thuộc về Tâm còn năm đại trước thuộc về thân. Như vậy chúng ta giác ngộ chỉ là giác ngộ cái thân và cái tâm. Bản chất là thấy được cái thật tính và thật tướng của thân và tâm.
Đầu tiên giác ngộ cái thân này giả, giả ở việc thân do tứ đại kết hợp lại mà thành. Bốn đại địa, thủy, hỏa, phong do duyên hợp lại thành cái thân hoàn chỉnh, khi hết duyên thì tan rã hoặc biến dạng hiện tướng là sự phù nề ( địa biến dạng), cảm lạnh ( thủy), bệnh sốt ( hỏa), bệnh tê thấp ( phong). Nhận thức được rõ ràng cái thân là giả, do duyên hợp mà gọi là tạm có.
Kế đến giác ngộ tâm sinh diệt là giả. Tâm sinh diệt bởi chấp ngã tướng và chấp pháp tướng. Từ cái vọng tưởng là sự phân biệt đối đãi mà có sinh có diệt theo vọng của sáu căn với sáu trần. Cái tâm biến đổi như huyễn như hóa không thật nên gọi là giả.
Biết hai cái đó giả rồi thì sự tu hành dễ như trở bàn tay. Sở dĩ chúng ta tu chậm tiến là vì cứ nhớ những chuyện liên hệ tới thân. Hôm qua mình bị ai rầy, hoặc làm ăn thất bại, tiền của suy giảm, lý luận với ai bị thua, làm sao cho hơn họ…, cứ nhớ đi nhớ lại những thứ ấy. Do chấp thân, chấp tâm nên ngồi thiền không yên. Khi đã biết thân giả, biết tâm sinh diệt giả chúng ta ngồi thiền dễ yên lắm.
          Như vậy Giác là thấy tướng thân và tướng tâm không thật có, Ngộ là thấy được thân tâm biến đổi như huyễn như hóa là vọng tưởng không thật. Khi tu hành dẹp hết các vọng tưởng đối đãi thì thể nhập được trí vô sai biệt bình đẳng. Mặc dù biết tất cả sự vật tuy huyễn hóa, tuy không phải là tính chân thật nhưng do chúng ta mê muội thì lại đối đãi biến ra nhiều tướng sai khác giả dối ở cái thế giới của chúng ta. Do đó Bồ tát phải làm việc công đức để giáo hóa chúng sinh từ bỏ cái tướng đối đãi giả dối để tạo thành chính niệm diệt hết vọng niệm. Được như thế gọi là giác ngộ.
Như vậy Giác Ngộ dễ hay khó? Chỉ đổi cái thấy thôi. Giả biết giả, chuyện đó hợp lý trăm phần trăm sao lại nói khó! Lâu nay chúng ta đi trong mê nhiều kiếp nhiều đời rồi, nên bây giờ chuyển lại giác khó, chớ không phải chuyện tu khó. Thấy thân thật chuyển qua thấy thân giả chừng bao lâu? Tích tắc chỉ cách nhau một hơi thở! Kinh Kim Cương Phật nói, giả sử có người đem của bảy báu nhiều bằng núi Tu-di bố thí, không bằng người trì bốn câu kinh Kim Cang. Nhẹ làm sao! Trì tụng bốn câu kinh Kim Cương có khó gì? Còn của báu chất bằng núi Tu-di, muôn kiếp mình cũng chưa làm được nữa.
Tứ cú kệ Kinh kim cương:
                          KHÔNG THÂN
KHÔNG TÂM
KHÔNG PHÁP
KHÔNG NGÃ
Vậy tại sao Phật lại nói thế? Đó là để chỉ dạy chúng ta mê thân thật thì mê cảnh thật, mê tất cả sự vật hình tướng bên ngoài đều thật. Nhưng thật ra những gì có tướng đều do duyên hợp, tạm bợ, đủ duyên còn, hết duyên mất, chớ không còn mãi. Vậy được bao nhiêu cái giả đi nữa cũng chỉ là giả. Đem cái giả tạm đổi lấy cái thật thì không có gì sánh nổi. Trì bốn câu kinh Kim Cương tức là nhận và sống với cái thật của mình.

Đức Phật còn nói đem thân mạng này bố thí hết đời này qua đời khác, bao nhiêu đời cũng không bằng trì bốn câu kinh Kim Cương. Chúng ta nghe không sao hiểu nổi. Nhưng có gì lạ đâu, vì tất cả sinh mạng của chúng ta hiện giờ chỉ mấy chục năm rồi hoại, không thật. Còn bốn câu kinh Kim Cương là chân lý, là lẽ thật muôn đời không thay đổi. Nắm được chân lý thật mà sống thì mới siêu thoát, vượt hơn tất cả. Nếu chúng ta nhìn sự vật đúng với con mắt thức tỉnh thì kinh Phật nói rõ như ban ngày, không có gì nghi ngờ hết.
Trông sao ta thấy có cao
Nếu cao hơn nữa hết sao là gì?
Vàng ròng dưới đất tí ti
Để thành thỏi lớn phải thi nhau đào
Vượt lên tất cả cái nào
Tâm thành tất cả hãy vào Chân - Tâm.
( Quảng Kiến)

Nhà Phật dạy chúng ta giác thẳng nơi con người, chớ đừng tìm cầu bên ngoài. Nếu giác thẳng con người rồi thì ở ngoài cũng giác, nếu mê con người thì ở ngoài cũng mê. Cho nên trọng tâm đặt ở con người ở tự tâm. Tất cả chúng ta học Phật là học đạo giác ngộ, mà không chịu giác thì không biết học cái gì? Có người càng học lại càng mê, nên mới đi cúng chỗ này chỗ kia, cầu xin ông này bà nọ đủ thứ hết. Làm như thế là tự mình biến thành kẻ ăn xin ăn mày những thứ mà mình vẫn có!. Đó là sai lầm lớn của người học Phật. Đạo Phật là con đường, là phương pháp đưa chúng ta tới giác ngộ. Đã đi con đường giác ngộ mà lại trở thành mê, thật không có lý chút nào. Như vậy GIÁC là thấy được sự vô - thường, NGỘ là nhận thức được bao vọng niệm vẫn thường che Tâm.

Bài viết Quảng Kiến có tham khảo các tài liệu từ: Kinh Viên Giác, Kinh Kim Cương, Kinh Thủ Lăng Nghiêm, Bài giảng của Bác sĩ Tâm Minh Lê Đình Thám, của HT Thích Thanh Từ, cư sĩ Đồng Tiến…

( …Phần 2 bàn về Giải thoát…)

Thứ Tư, 5 tháng 9, 2012

NHAN MINH LUAN- PHAT GIAO DAI THUA



NHÂN MINH LUẬN có tên đầy đủ là Nhân minh nhập chính lý luận, đây là một pháp môn lớn của Phật Giáo Đại Thừa. Trong đó:
v    Nhân là nguyên nhân chính của tất cả sự vật (Pháp giới)
Pháp giới: mọi sự vật có thể phân biệt và nằm trong một giới hạn cụ thể gọi là Giới, và có tên gọi riêng thì là Pháp).
v    Minh là giải thích đầy đủ mọi ý nghĩa của các pháp trong pháp giới.
v    Nhập là vào ý nghĩa cơ bản của các pháp.
v    Chính là giáo lý Đại Thừa chân chính.
v    Luận là biện luận và chứng minh cho sự chân chính của giáo pháp Đại thừa. 
 Do đó có thể nói Nhân minh nhập chính lý luận là phép biện luận và chứng minh của Phật giáo Đại thừa.   
Tất cả các sự vật có giới hạn riêng có thể nói và nghĩ được thì việc biện luận và chứng minh cho các sự vật đó phải có 3 phần:
1. Tông: nghĩa là tông chỉ của từng sự vật cụ thể là như thế nào. Đây là việc nói về cái tướng, cái tính, cái dụng, cái quả báo ... của từng sự vật đó.

2. Nhân: là nguyên nhân thế nào để có cái tông ở phần 1( thông thường thì có 4 nhân và 4 duyên)

3. Dụ: là các thí dụ chân chính chứng minh cho cái Nhân nêu trên là đúng đắn. Phân tích cụ thể ra thì Dụ là các tác động, hiệu quả, cái gốc, cái ngọn ( theo thập như thị là tác, lực, mạt, bản)

Khi lập Tông cần phải rõ ràng dứt khoát, Nhân phải là cái nguồn gốc của Tông. Dụ phải chứng minh và làm bằng chứng được cho Tông và Nhân , thêm nữa còn phải chứng minh được vì sao có ví dụ này.
Để rõ hơn chúng tôi xin phân tích ba bài thơ được viết trong dịp lễ Vu lan có đủ lý luận để lập và chứng minh cho các tông chỉ đã nêu:

Bài 1: VU LAN TRƯỜNG HẠ 2012
Đại dương bao la (1)
Cha mẹ là tất cả (
2)
Dù phương trời lạ (
3)
Với dòng đời ồn ã (
4)
Đại lễ Vu Lan (
5)
Nơi Hưng Khánh chùa Hạ (
6)
Chợt Tỉnh giấc mình! (7)
Nhớ mẹ với nhớ cha... (8)

Trong bài thơ trên chúng tôi muốn lập Tông chỉ của những người con phải luôn luôn nhớ đến công ơn cha mẹ (lập Tông ở câu thơ 1 và 2) ; bởi sự sinh thành nuôi dưỡng và giáo dục đầy hy sinh và vất vả của cha mẹ ( lập Nhân). Người làm cha làm mẹ luôn luôn lo lắng từng giờ từng phút cho những người con của mình kể từ khi sinh ra cho đến tận khi cha mẹ quá vãng (lập Nhân ở câu 3,4). 
        Quá vãng: diệt cái thân đời này để luân hôi hoặc vãng sinh về các cõi Tịnh độ của        
Chư Phật ở khắp mười phương. Kết quả này tùy thuận theo công hạnh tu tập của cá nhân từng người.
Bởi vì công ơn dưỡng dục hơn cả đại dương bao la nên chúng ta những Phật tử tại gia và các Thầy xuất gia đều nhận thức được ơn cha mẹ là cái ân lớn trong tứ trọng ân.
Tứ trọng ân: Ân Phật, ân Quốc gia, ân cha mẹ, ân chúng sinh.
Do đó mỗi năm cứ đến ngày rằm tháng bảy vào dịp Vu lan những người con lại nhớ về công ơn cha mẹ, cùng nhau đứng ra tổ chức kỷ niệm, cùng nhắc nhở nhau nhớ về ơn đức của cha mẹ. Cầu chúc cho cha mẹ hiện còn được sức khỏe, đã vãng sinh thì được an lành...Tại các Chùa, cũng vì để giáo hóa chúng sinh mà thường tổ chức lễ hội Vu lan được khang trang với mục đích nhằm thức tỉnh chữ hiếu, là cái hạnh lành của tâm chúng sinh. Việc tạo và tu trì thường xuyên hạnh lành sẽ thấy được bản tính chân như là Phật tính, bởi “tính là gốc của vạn hạnh do từ một tâm mà hiện dùng”.
Định nghĩa Tâm: là bể của vạn pháp, do từ một thật tế mà sinh ra. Tính là gốc của vạn hạnh do từ một tâm mà hiện dùng. Linh minh đầy đủ, tuệ giải tròn thông. Đầy muôn trọn pháp duy một Lý, xuyên suốt muôn thuở chỉ một tâm. Buông ra thì lấy ít làm nhiều, thu vào thì lấy nhiều làm ít. Buông ra thì lớn không gì ngoài mà thu vào thì nhỏ không gì trong.
Câu 5 và 6 trong bài 1 là Dụ, ý thể hiện việc Chùa Hưng Khánh tổ chức ngày lễ Vu lan là việc làm đúng đắn mà ai cũng đồng tình ửng hộ. Việc làm này chứng minh cho cái Nhân để ca tụng nhớ ơn đức của cha mẹ mỗi người (khẳng định Tông chỉ đã lập). Và khẳng định việc tổ chức này là hoàn toàn đúng đắn phù hợp với mong mỏi của mọi người và cũng là phương tiện để độ sinh theo giáo lý của Đức Phật. 

(...Phan tiep phan tich bai 2 va bai 3...)
Bài 2: VU LAN BÁO HIẾU 2012
Sa bà điên đảo vũng lên đồi, (9)

Nhân xấu xưa kia Quả nổi trôi. (10)
Nếu không tu chỉnh từng giây phút, (11)
Đến giờ quá vãng chẳng còn hơi. (12)
Nay gặp pháp lành xa niệm tà, (13)
Xả đi nghiệp cũ chỉ tu thôi. (14)
Để như tôn giả Mục Kiền Liên, (15)
Hiếu hạnh cao, cứu Mẹ lên trời. (16)

Bài 3: XUẤT THẾ 3!
Thơ Cổ Nhân xưa khuyến lại ta (17)
Lý suy Ta Phật không - hai mà. (18)
Tâm người mong hãy hằng tu chỉnh (19)
Tỉnh thức chớ nghe kẻ gạt nha!. (20)
Công đó việc đây đừng chấp Sự, (21)
Sẽ không bị trói bởi Tà – Ma (22)
Chẳng tin, Lương Vũ còn bia cũ, (23)
Bởi chỉ xây thôi nghiệp chẳng qua! (24).