Thứ Tư, 25 tháng 4, 2012

THIỀN ĐẠI THỪA (02)


Kinh Đại Bát Nhã được Long Thụ Bồ Tát (Tổ sư thứ 14 của thiền Tông Ấn Độ, Tổ sư sáng lập tam luận tông, tổ sư thứ 2 của Mật giáo Đại thừa) nói đầy đủ ở hai bộ luận Đại thừa là Đại Trí Độ Luận và Trung Quán Luận.
Đại trí Độ luận giảng nghĩa toàn bộ khế kinh Đại Bát Nhã. Từ đời quá khứ có đức NHư Lai là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật cũng đã thuyết ra khế kinh Đại Bát nhã như đức Thích Ca Mâu Ni nói sau này. Trước khi nhập Đại Niết Bàn Đức Thích Ca Mâu Ni đã nói lời tiên tri sau này năm trăm năm có các loại ngoại đạo nổi lên, chúng giả danh tu hành theo đạo Phật nhưng tâm chấp trược cái tướng có tướng không rất nhiều. Lúc đó hóa thân của Long chủng thượng Tôn Vương Phật là Long Thụ Bồ Tát sẽ nêu cao đạo lý Đại Thừa nói ra nhiều bộ luận Đại Thừa để phá tan cái chấp trược có không của các ngoại đạo, giả danh tu theo Phật pháp.
Ở bộ đại trí độ luận, Long thụ Bồ Tát đã nói chân lý của Đại Thừa bằng chữ phạn là chữ A Bồ đề Tâm tiêu biểu cho tâm đại giác ngộ phát ra diệu dụng là Đại Bát Nhã. Chữ A Bồ đề Tâm này có bài kệ Bồ Tát nói sau:
Bất tự sinh
Bất tha sinh
Bất cộng sinh
Bất vô nhân sinh
Thị danh A nốc đa la tam diểu tam Bồ đề Tâm (Vô thượng chính đẳng chính giác Tâm.)
Bất tự sinh là nói tất cả các pháp đều là đa nhân sinh do nhiều nhân cùng có một lúc biến hiện ra theo các nhân có các duyên tương ứng. Đó là duyên của 7 đại Địa, thủy, hỏa,phong, không, kiến, Thức đại. Bảy đại này cùng có một lúc gọi là câu hữu nhân. 7 đại này duyên khởi lẫn nhau gọi là nhân duyên. Các duyên liên tục hợp với các nhân thì gọi là Đẳng lưu nhân kết hợp với đẳng vô gián duyên. Các duyên phát triển mạnh cùng với các nhân thêm lớn mạnh gọi là Tăng thượng Nhân hợp với tăng thượng duyên. Các duyên và các nhân trong ngoài kết hợp với nhau và khác thời gian dài ngắn mà thành thục (Dị thời nhi thục), khác phẩm loại mà thành thục (Dị phẩm nhi thục) biến ra khác như Nhân biến dần nhờ có Duyên mà thành quả (Biến dị nhi thục). Bên trong là nhân, bên ngoài là duyên. Cái duyên bên ngoài thì gọi là sở duyên duyên. Sở duyên duyên của lục đạo luân hồi thế tục chính là Thiên Văn, Thiên thời, thiên tài, Địa lý, địa lợi, địa tài. Còn cái Nhân chung gọi là Nhân Tài, nhân hòa, nhân sự. Đó chính là từ cái thế tục vận dụng nó để vươn lên bậc thánh hiền Xuất thế gian có chính nhân tu là Tâm Bồ Đề tức là Phật tính mà tất cả chúng sinh cùng chư Phật đều có. Chúng sinh tuy có chính nhân nhưng phải có chính duyên chính là, biết tu theo pháp môn mười Ba la Mật của chư Phật thì mới đắc đạo thành Phật tức là viên mãn được cái Tâm Bồ Đề tức là cái Phật tính sẵn có. Đó chính là chứng minh cho cái sai lầm của ngoại đạo vì tất cả sự vật như thượng đế chẳng hạn không thể tự mình sinh ra mình vì trước khi sinh ra chính mình đã không có làm sao từ không có gì lại sinh ra cái hoang đường là thượng đế tự cho mình là có quyền cao nhất, tự cho mình là có tất cả mọi thứ kể cả mọi thứ thiện ác tốt xấu trái ngược. Đó chính là ý nghĩa cơ bản của câu kệ Bất tự sinh
Bất Tha Sinh:
          Mình Là Tự, đối đãi với tự cái khác là tha, tự đã không thể tự sinh ra mình thì cái tha làm sao có thể nói là tha tự sinh ra tha được, nói như thế chẳng khác gì thượng đế là cái tự lớn nhất bị một cái tha khác sinh ra. Cái tha đó là ai?, hình dáng thế nào?, thể chất thế nào? Tác dụng thế nào? Mà lại sinh ra được cái Tự hoang đường là thượng đế. Phải quán như thế thì sẽ hiểu được Đạo lý trùng trùng duyên khởi với các câu hữu nhân của Tĩnh lự ( Thiền Định Đại Thừa).
Bất cộng sinh:
Tự đã chẳng phải là Tự thì cái đối đãi của tự là tha cũng chẳng phải tha. Làm sao hai cái đó lại cộng với nhau mà sinh ra được tất cả các Pháp tức là 7 đại được?
Vô nhân sinh:
Vô nhân nghĩa là rỗng không không có gì hết. Cái rỗng không này chính nó cũng chẳng vững bền luôn luôn thay đổi cái đặc rắn, lỏng và hơn tụ lại thì cái rỗng không lại nhỏ đi. Những cái đó tan loãng ra thì cái rống không lại to thêm ra. Nhà Bác học Anbe Anhxtanh tác gả của thuyết tương đối trên thế giới đầu thế kỷ 20 đã nói. Vật chất có hình tướng tan loãng ra thì cũng vô hình như tâm lực vô hình. Tâm lực vô hình làm cho vật chất kết tụ lại thì làm ra được nhiều thứ vật có hình. Tâm lực vô hình là vật chất hữu hình tan loãng ra. Vật chất hữu hình chính là tâm lực vô hình kết tụ lại. Chân lý này trước đó mấy chục năm nhà triết học En ma nu ăng kan người Đức cũng đã chỉ ra học thuyết nhị nguyên luận nói rõ là tâm và vật là nhị nguyên sáng tạo ra mọi thứ trên thế giới. Ở nước Đức các nhà bác học này đã nghiên cứu Phật pháp Đại Thừa tức là đạo lý thất đại duyên khởi của kinh Thủ lăng Nghiêm trong đó Đức Phật dạy năm đại: Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không là năm sắc pháp (năm vật chất) và hai đại  Thức  và Kiến là hai tâm Pháp ( hai tâm linh). Đó chính là 7 câu hữu nhân cùng liên minh với nhau mà có đẳng lưu nhân, tăng thượng nhân, dị thục nhân. Các nhân này tác động chi phối nhau ảnh hưởng lẫn nhau là có bốn duyên: Nhân duyên, Đẳng vô gián duyên, Tăng thượng duyên, Sở duyên duyên. Tất cả đạo lý nhân duyên này đã bác bỏ hoàn toàn cái gọi là vô nhân sinh mà các ngoại đạo nói. Cái vô nhân sinh của họ chính là cái đoạn diệt kiến rỗng không của họ đối đãi với cái thượng Đế tất cả. Đó là hai thứ thường kiến và đoạn diệt kiến đối đãi với nhau. Đó cũng là cái đối đãi của duy vật cực đoan coi đồng tiền là trên hết với cái duy tâm cực đoan gọi là chủ quan duy ý chí. Chính hai cái tư tưởng sai lầm này đã gây nhiều đau khổ cho nhân loại. Chỉ khi nào mọi người giác ngộ biết vô nhân sinh là cái sai lầm lớn hiểu rõ chân lý nhân quả trùng trùng duyên khởi của Đại Thừa Phật Pháp. Lúc đó ngay lập tức thiên hạ sẽ thái bình. Đấy cũng là sự giác ngộ cao nhất của câu thứ tư Thị danh a nốc đa la tam diểu tam Bồ Đề ( Vô thượng = A nốc đa la = Chính đẳng, Tam diểu tam Bồ đề = Chính giác). Ý nghĩa này cũng là ý nghĩa của câu tam kinh Bát nhã: Tam thế chư Phật y Bát nhã ba la mật đa cố đắc a nốc đal la tam diểu tam bồ đề. Đó là chân lý tối cao của Hiển giáo Đại Thừa. Đồng thời cũng là thị đại Thần chú, thị đại minh chú, thị Vô thượng chú, thị Vô đẳng đẳng chú của Mật giáo Đại Thừa.
Trong bộ Trung Quán luận Bồ Tát Long Thụ cũng viết:
Nhân duyên sở sinh Pháp
Ngã thuyết tức thị không
Diệc danh thị giả danh
Diệc danh Trung Đạo Nghĩa
Câu kệ đầu tiên “ Nhân duyên sở sinh pháp” có nghĩa là:
          Nhân có rất nhiều loại Nhân. Như các bộ luận khác ở trên nói là Câu - hữu có nghĩa là cùng có trong một thời gian nhất định, ở một vị trí không gian nhất định. Các nhân này tác động ảnh hưởng chi phối lẫn nhau hỗ trợ cho nhau thì gọi là duyên. Tổ Đường Huyền Trang khi viết các bộ luận của Pháp tướng tông có nói nhiều người hiểu lệch lạc là nguyên nhân chính gọi là nhân, nguyên nhân phụ gọi là duyên. Như thế là sai lầm vì không bao giờ nhân trực tiếp hóa thành quả ví dụ:  Người ta thường nói trong quả có nhân là đúng. Nhưng nói trong nhân có quả là sai vì như một quả cam chẳng hạn thì bổ quả cam ra ta thấy có nhân là hạt giống cam ở bên trong. Nhưng bổ hạt cam ra thì không bao giờ có quả. Hạt cam nếu gọi là nguyên nhân chính. Múi cam, vỏ cam là nhân duyên phụ thì đều sai. Do đó hạt cam, múi cam và vỏ quả cam đều là những câu hữu nhân chứ không thể nói hạt cam là nguyên nhân chính, múi cam và vỏ quả cam là nguyên nhân phụ được. Sau đó các yếu tố vỏ, hạt, quả tác động với nhau thì là ngoại nhân. Còn hạt cam, múi cam và vỏ quả cam thì là nội nhân. Khi cái vỏ và múi cam tiêu đi thì nó hỗ trợ cho hạt cam nảy mầm. Đấy chính là các nhân tác động với nhau chi phối nhau ảnh hưởng nhau thì gọi là nội duyên. Còn người chăm bón cái cây cam đã lớn lên từ hạt, phân bón, điều kiện thời tiết… thì là ngoại duyên. Đây là một vì dụ về các loài thực vật có đủ hai nhân và hai duyên nói trên mới tạo thành kết quả. Nhưng các loài thực vật có sự giống các loài động vật là có thân thể và có sự sống và sự sinh sản. Điều khác nhau cơ bản là động vật thấp như các loài súc sinh, cao như quỷ, người, thần thì đều có Tri là sự nhận biết đều có thức là sự phân biệt, đều có Trí là sự tinh khôn, đều có tuệ là sự sáng suốt.
Phật Giáo Đại Thừa dù là mật giáo hay hiển giáo đều là những phương pháp tư duy cao siêu nhất. Đó chính là đã chỉ rõ đạo lý Nhân – Duyên – Quả của tất cả sự vật. Tức là tất cả các loại hữu tình như súc sinh, quỷ, người và thần và các loại vô tình như cây cỏ, đất đá. Câu hữu nhân của tất cả các sự vật chính là 7 đại : Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không , Kiến, Thức Đại. Trong đó địa thủy hỏa phong là cấu tạo sắc pháp (vật chất) của tất cả các loại hữu tình và vô tình. Nhưng dù tất cả 7 đại này đều có sự sống nhưng cái sự sống của các loài hữu tình cao hơn vì có Tri có Thức, có Trí, có Tuệ như trên đã nói. Bốn thứ này là biểu hiện của Kiến Đại và Thức Đại tức là đại thứ 6 và thứ 7 trong 7 đại. Kiến đại là tính thấy ở trong con mắt. Con mắt là nơi cư trú của kiến đại chứ không phải con mắt sinh ra kiến đại. ví dụ: Một người mù nếu mọi người hỏi họ thì họ nói “tôi vẫn thấy, nhưng tôi chỉ thấy tất cả là một màu đen lờ mờ. Còn về sáng thì thấy được nhiều màu sắc khác nhau như màu vàng của địa đại, màu đỏ của hỏa đại, màu trắng của thủy đại, màu tím sẫm của phong đại và không màu của không đại. Thức đại là tính biết. Đó là sự nhận biết cụ thể là nhĩ căn (tính nghe của tai) thì đối xứng với các thứ âm thanh (thanh trần) thì sẽ có sự nhận biết âm thanh (nhĩ thức). Tỵ căn ( tính ngửi của mũi) đối xứng với các thứ mùi (hương trần) thì sẽ có sự nhận biết của mũi (tỵ thức). Thiệt căn (tính nếm của lưỡi) đối xứng với các thứ vị (vi trần) thì sẽ có sự nhận biết của lưỡi (thiệt thức). Thân căn (tính cảm xúc của toàn thân thể) đối xứng với các vật bên ngoài (xúc trần) thì xẽ có nhận biết của thân thể (thân thức). Ý căn (tính phân biệt mọi sự vật) đối xứng với pháp trần (đặc tính của mọi sự vật) sẽ có sự nhận biết của ý căn (ý thức). Nhưng ý thức chính là cái thức thứ 6 này không ai giống ai. Cái riêng của từng chúng sinh là ở chỗ ta biết chứ không phải chúng sinh khác biết. Cái ta biết này riêng biệt của từng chúng sinh chính là cái thức thứ 7 (Mạt na thức) của mỗi chúng sinh. Cái thức thứ 7 này của mỗi chúng sinh thì phải có chỗ dựa. Chỗ dựa của nó chính là A lại Da thức thứ 8 ( tạng thức).  Tạng thức này bị thức thứ 7 luôn luôn chấp là của mình đó gọi là Ngã ái chấp tàng thức.  Gọi là tàng thức thì có hai chức năng: Một là tàng thức là chỗ chứa đựng hạt giống = Nhân = Chủng Tử của tất cả  mọi sự hiểu biết về các khoa học của cuộc đời. Hai là Tạng thức có khả năng chứa đựng tất cả chủng tử khoa học của cuộc đời. Cái khả năng chứa đựng này một số nhà triết học âu châu, á châu và mỹ châu gọi là Tiềm thức tức là cái thức có khả năng tiềm tàng để một lúc nào đó thì những kiến thức ở trong tiềm thức này đem ra sử dụng được vào mọi công việc khoa học của cuộc đời. Tất cả tám thức: Nhỡn, Nhĩ, Tỵ, Thiệt, Thân, Ý thức, Mạt na thức, A lại da thức là biểu hiện cụ thể của kiến đại và thức đại trong 7 đại. Kiến đại và thức đại là hai tâm pháp. Địa, Thủy, Hỏa, Phong và Không đại là hai sắc pháp. Các khế kinh đại thừa chư Phật đều dạy sắc tâm đồng khởi , sắc tâm liên minh kết thành tính mệnh của tất cả từng cá nhân chúng sinh.
          Tâm pháp ( Kiến đại và Thức đại) chính là nội nhân trong câu hữu nhân của mỗi chúng sinh. Sắc pháp ( địa, thủy, hỏa, phong) chính là ngoại nhân trong câu hữu nhân của mỗi chúng sinh. Nội  nhân và ngoại nhân này tác động chi phối ảnh hưởng nhau thì đấy chính là nội duyên của mỗi chúng sinh. Tất cả ngoại cảnh tức là thế giới của chúng sinh đang ở bao gồm có các hành tinh, nhật (mặt trời), nguyệt (mặt trăng) chính là ngoại duyên của mỗi chúng sinh. Đây là vũ trụ quan và nhân sinh quan chân chính mà chư Phật đã dạy chúng sinh trong các khế kinh Đại Thừa. Tất cả Nhân và Duyên đều bình đẳng vì một nhân hay một duyên trong đó không cái gì có thể tiêu diệt những cái còn lại và đồng thời cũng không thể sinh ra những cái còn lại. Nếu ai nghĩ một cái có thể sinh ra tất cả mọi cái khác nhau thì người đó đã mắc sai lầm thường kiến thượng đế. Lại nếu ai nghĩ nếu một cái có thể tiêu diệt các cái khác thì người đó mắc cái sai lầm đoạn diệt kiến phàm phu.
Nói thêm về nội nhân của chúng sinh riêng biệt là cái chúng sinh thường gọi là linh hồn Đạo Phật gọi là Thần thức. Ngày xưa Tổ Đạt Ma (Tổ thứ 28 Thiền tông Ấn Độ) đến Chùa Thiếu Lâm gặp một thanh niên tên là Thần Quang tha thiết xin Tổ nhận làm đệ tử. Thanh niên này nói “ Tâm con chưa được an” xin tổ ban cho con phép an Tâm. Tổ nói anh hãy đưa cái Tâm của anh ra đây ta sẽ an tâm cho anh. Người thanh niên nói” Con tìm mãi không thấy tâm con ở đâu để Tổ an cho”. Tổ nói “ như thế ta đã an tâm cho anh rồi đó”. Đến thế kỷ thứ 19 nhà bác học Anbe Anh x tanh là người sáng tạo ra thuyết tương đối.  Một hôm có ông bạn cũng là tiến sĩ như nhà bác học đến hỏi: “cái thuyết tương đối của anh quá trừu tượng, tôi làm sao có thể hiểu được?. Anbe Anhxtanh nói : Anh có trí thông minh không?, Có chứ, như thế tôi với anh đều có bằng tiến sĩ như nhau vì đều có trí thông minh. Anbe Anhxtanh nói tiếp vậy anh hãy đưa cái trí thông minh của anh ra để cho tôi nhìn thấy, nghe thấy, ngửi thấy, nếm thấy, sờ thấy thì tôi mới tin là anh có trí thông minh. Ông bạn im lặng không trả lời được. Anbe Anhxtanh nói tiếp: ‘anh bạn thân mến ạ, ở trên đời này có một thứ rất trừu tượng rất vô hình không ai có thể nhìn thấy sờ thấy như tôi yêu cầu anh, nhưng nó luôn luôn vẫn có trong anh, trong tôi và tất cả mọi người. Cái đó chỉ huy tất cả mọi giác quan. Nó làm cho mắt nhìn thấy, tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị, thân biết cảm xúc. Nó là cái vô hình nhưng chỉ huy tất cả mọi cái hữu hình. Đó là trí thông minh. Trí thông minh này xuất phát từ tâm hồn của mọi người. Ai cũng biết Anbe Anhxtanh là người tu học Phật Giáo đại thừa, thường xuyên ăn trường chay cho nên lời giải đáp của Ông gần giống như lời giải đáp của Tổ sư Đạt Ma với thanh niên Thần quang. Sau này Thần Quang chính là Tổ Tuệ Khả thứ hai của thiền tông trung hoa.
          Hiện nay với những phương tiện máy móc khoa học hiện đại, người ta có thể chụp thấy trong đầu mỗi người đang sống có một vầng hào quang hình cầu sáng nằm ở giao điểm giữa huyệt bách hội giữa đỉnh đầu và huyệt ấn đường giữa mũi và hai lông mày ở phía trong đầu. Lúc sống vầng hào quang đó sáng. Khi chết soi đầu thì không thấy hào quang đó nữa. Đó là cái Tây Y gọi là tuyết tùng .  Khi sắp thở hơi cuối cùng lúc lâm chung và khi đã tắt hơi thở cân thân thể lúc thở hơi cuối cùng nặng hơn thân thể lúc đã tắt hơi thở là từ 20 đến 70 gam trong khi thí nghiệm với một triệu người. Đó chính là trọng lượng chính của linh hồn mỗi người giao động từ 20 đến 70 gam. Khi linh hồn ra khỏi xác lúc chết thì như một luồng ánh sáng hình người cao bằng đứa trẻ lên ba. Nét đặc biệt là cái người có phúc đức trí tuệ thì đầu ở trên chân ở dưới như người thường lúc sống. Người kép phúc đức trí tuệ thì linh hồn bay theo chiều ngang. Người độc ác ngu si thì linh hồn bay chổng ngược đầu dưới chân trên. Ai cũng biết trường hợp nhiều phúc đức trí tuệ thì sẽ được chuyển sinh lên các cõi cao như các cõi tịnh độ của chư Phật, kém phúc đức trí tuệ một chút thì sinh vào các cõi Trời dục giới, sắc giới, vô sắc giới. Kém tý nữa thì sinh vào các cõi người. Linh hồn bay ngang thì là người kiếp sausi mê, ít phúc đức. Linh hồn bay chổng ngược nhất định đọa địa ngục ngã quỷ, súc sinh.

THIỀN ĐẠI THỪA (01)


Tối thượng thừa Thiền của Thập phương Tam Thế chư Phật
4/21/2012.
Bao gồm cả Hiển giáo và Mật giáo. Hiển giáo là các đạo lý dùng ngôn ngữ văn tự để thể hiện. Riêng tiểu thừa, Trung Thừa thì cũng có hiển giáo như Đại Thừa. Nhưng Mật Giáo thì chỉ có Đại Thừa. Vì Mật giáo tuy cũng dùng ngôn ngữ văn tự nhưng là những ngôn ngữ văn tự đặc biệt chỉ có chư Phật với chư Phật mới hiểu hết được hêt ý nghĩa. Ngôn ngữ văn tự của Mật Giáo là tóm tắt tinh hoa đại ý của các bộ khế kinh Đại Thừa bằng những câu chữ tiếng Phạn (shancri), những ngôn ngữ này là tiếng cổ của miền bắc Ấn Độ cách đây khoảng 6000 năm. Cho nên Mật Giáo Đại Thừa cũng chính là tối thượng thừa Thiền Đại Thừa. Ý nghĩa giống nhau nhưng hình thức biểu hiện ngôn ngữ là khác nhau.
          Tối thượng thừa Thiền được biểu hiện trong Mật Giáo qua các bài mẫu tự Đa- ra- ni ở hai bộ khế kinh Đại phương quảng hoa nghiêm ( Đại Thừa Viên giáo) và Đại bát Niết Bàn ( Đại thừa Chung giáo và Đại thừa Đốn Giáo). Còn biểu hiện ở khế kinh Thủ Lăng Nghiêm (Đại thừa thông giáo).
          Tối thượng Thừa Thiền được biểu hiện trong hiển giáo qua các bộ khế kinh THủ Lăng Nghiêm, Đại Bát Nhã và Đại bát niết bàn cùng Đại phương quảng hoa nghiêm và nhiều bộ khế kinh Đại thừa khác.
          Ở nơi Mật Giáo qua các bộ khế kinh Đại Thừa nói trên thì ý nghĩa tối thượng thừa thiền biểu hiện là: chỉ rõ chúng sinh bản lai từ vô lượng kiếp trước đã có đầy đủ Như Lai trí tuệ đức tướng ( Nhất thiết chúng sinh bản lai cụ túc Như Lai trí tuệ đức tướng) như khế kinh Đại phương quảng hoa nghiêm đã nói. Lại như khế kinh Đại bát niết bàn Đức Phật Thích Ca đã dạy “Nhất thiết chúng sinh bản lai cụ túc phật tính thường trụ bất sinh bất diệt”. Khế kinh Thủ Lăng Nghiêm đức Phật Thích Ca cũng dạy “ Nhất thiết chúng sinh bản lai cụ túc viên thông nhị thập ngũ tính thường trụ hiển thị tại nhị thập ngũ viên thông pháp môn”. Tất cả ý nghĩa tối thượng thừa này đều biểu hiện ở ngôn ngữ phẩm Đà la ni mẫu tự ở khế kinh Đại phương quảng hoa nghiêm, Đại bát niết bàn và Chân ngôn Thủ Lăng Nghiêm.
          Ở hiển giáo khế kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng chỉ rõ pháp môn viên thông là 25 pháp môn đều nhằm mục đích giúp chúng sinh tu luyện đắc tính viên thông. Tính viên thông này là viên mãn (đầy đủ mọi công đức vô lậu, vô vi). Kiên cố (thường trụ bất sinh bất diệt) và cứu kính (cao siêu đệ nhất cũng gọi là vô thượng). Khế kinh Đại phương quảng hoa nghiêm nói rõ 10 hạnh nguyện của đức Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát là thật giáo Đại thừa. Chúng sinh nào có cơ duyên Đại Thừa tu 10 hạnh nguyện này thời vị lai sẽ đắc Đạo vô thượng đại Bồ đề đầy đủ tính viên mãn kiên cố cứu kính như kinh Đại phương quảng hoa nghiêm nói. Khế kinh Đại bát niết bàn Đức Phật dạy nếu chúng sinh nào phát tâm tối thượng thừa dù chỉ nghe hai chữ thường trụ mà kính cẩn phụng trì thì đời vị lai cũng sẽ đắc đạo thành Phật viên mãn cái Phật tính thường trụ mà chúng sinh đã sẵn có từ vô thủy kiếp. Khế kinh Diệu pháp liên hoa là đại thừa Chung giáo Đức phật thụ ký cho rất nhiều đệ tử là A La Hán tu theo Đại Thừa sẽ đắc đạo thành Phật ở đời tương lai. Ở đây Đức Phật lại nhắc lại hạnh tu viên thông nhĩ căn của đức Quán Thế Âm Bồ Tát của khế kinh Thủ Lăng Nghiêm qua phẩm Phổ Môn thứ 25 ở đoạn nói hạnh Quán Thế Âm nghe tiếng chúng sinh cầu nguyện, niệm danh hiệu đức Quán Thế Âm mà thị hiện các thân thế gian và xuất thế gian (32 ứng thân) để đến cứu độ những chúng sinh đó.
          Khế kinh Diệu pháp liên hoa phẩm phương tiện thứ 2 tóm tắt đầy đủ đúng như ý nghĩa chung giáo Đại Thừa ở tất cả khế kinh đại thừa khác là ý nghĩa 10 như thị như sau:
1.     Như thị Tính ( Nhất thiết chúng sinh giai hữu Phật tính)
2.     Như thị Tướng ( Nhất thiết chúng sinh bản lai cụ túc Như Lai trí tuệ đức tướng)
3.     Như thị Nhân ( Nhất thiết chúng sinh bản lai hữu bản nhân Phật tính thường trụ)
4.     Như thị Duyên ( Nhất thiết chúng sinh bản lai hữu duyên tu Đại Thừa chính pháp)
5.     Như thị Quả ( Nhất thiết chúng sinh vị lai thành Phật quả vô thượng Bồ Đề bản hữu cụ túc nhân duyên như thị)
6.     Như thị Báo ( Nhất thiết chúng sinh vị lai thành Phật hữu cụ túc chính báo Đại Pháp thân, đại Báo thân, Thiên bách ức hóa thân, cụ túc Y báo cảnh giới thập phương tịnh độ giai hữu vô thượng Đại Niết Bàn)
7.     Như thị Lực ( Nhất thiết chúng sinh đắc Vô thượng Bồ Đề vị lai cụ túc Đại Lực Ba la Mật)
8.     Như thị Tác ( Nhất thiết chúng sinh đắc Vô thượng Bồ Đề vị lai cụ túc tác tướng hảo chư Phật, tác diệu dụng tứ vô lượng Tâm Đại từ, Địa Bi, Đại Hỷ, Đại Xả)
9.     Như thị Mạt ( Nhất thiết chúng sinh đắc vô thượng Bồ Đề vị lai cụ túc đại Trí đại Dũng đại Nguyện, Đại Phương tiện, Đại Bát Nhã giáo hóa chúng sinh đắc vô thượng Đạo vị lai kiếp)
10. NHư thị Bản ( Nhất thiết chúng sinh đắc vô thượng Bồ đề vị lai cụ túc nhiếp Mạt quy Bản tức thị tính tướng hòa hợp viên mãn bản thể đại Pháp Thân giai hữu thị hiện viên mãn báo thân giáo hóa chư Đại Bồ Tát, giai hữu thị hiện thiên bách ức hóa thân giáo hóa chư nhị thừa cập chư chúng sinh).
Mười như thị này tổng kết toàn bộ ý chỉ thuộc về giáo lý hành tín giải quả chứng đắc tối thượng thừa. Khế kinh Diệu pháp liên hoa phẩm phổ môn thứ 25 nói chân quán, thanh tịnh quán, quảng đại trí tuệ quán, Bi quán cập từ quán cũng là tương ứng với pháp môn viên thông nhĩ căn của kinh Thủ Lăng Nghiêm. Cụ thể là:
1.     Chân Quán: Tức thị tiên quán thanh trần vô tự tính như huyễn như hóa nhập viên thông Nhĩ căn
2.     Thanh tịnh quán: Tức thị thứ quán năng văn sở văn tướng năng giác sở giác tướng như huyễn hóa thị hiện giáo hóa chúng sinh nơi hữu lậu thế tục nhi bất nhiễm phiền não vô minh thế tục
3.     Quảng đại trí tuệ quán: Viên quán năng không sở không diệt trừ ngã chấp tướng (phiền não chướng) diệt trừ pháp chấp tướng ( sở tri chướng) đắc đạo quả Đại Bồ Tát nhất sinh bổ xứ tức là đạo quả diệu giác Bồ Tát thứ 52 như khế kinh đại phương quảng hoa nghiêm và khế kinh Thủ Lăng Nghiêm đã dạy
4.     Bi quán cập Từ quán:  Chung viên mãn đạo quả thứ 53 viên Giác Bồ Tát tức thị Phật quả Vô thượng Bồ Đề. Thị hiện diệu dụng Từ Quán đồng thượng từ lực thập phương Như Lai nhất Từ lực, đồng hạ Bi ngưỡng thập phương chư chúng sinh tức thị Bi quán giai hữu tứ vô lượng tâm Đại từ, Đại BI, Đại Hỷ, Đại Xả. Thập phương tam Thế chư Phật.
53 Đạo quả Đại Thừa khế kinh Thủ Lăng Nghiêm cũng biểu hiện ở hình ảnh thiện tài đồng tử thị hiện Sam học 53 Sư Tổ Đại Thừa ở khế kinh Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm. Đệ nhất Sư Tổ là Đại Trí Văn Thù Sư Lợi Bồ Tát ( Diệu Đức hoặc Diệu Cát tường Bồ tát là tiêu biểu cho căn bản trí đại thừa) cho đến Tổ Sư thứ 53 là đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát là tiêu biểu cho Hậu đắc trí Đại Thừa đồng thời cũng là nhất thiết chủng trí của chư Phật.
          Cần so sánh với Mật giáo Đại Thừa để hiểu rõ sự tương ứng với hiển giáo là như khế kinh Thủ Lăng nghiêm nói: Chân ngôn Thủ Lăng Nghiêm thập phương NHư Lai đồng thuyết cụ túc ba phương diện:
1.     Nhất tâm chân Như (Đại) tương ứng với Chân quán trong phẩm Phổ môn
2.     Tự tính thanh tịnh tâm (Bạch) tương ứng với thanh tịnh quán trong phẩm Phổ Môn
3.     Diệu dụng từ bi phổ độ chúng sinh Tâm ( tán cái) tương ứng với quảng đại trí tuệ quán, Bi quán cập Từ quán trong phẩm Phổ môn.
Đại Bạch Tán cái chính là ý nghĩa của chân ngôn Thủ Lăng Ngiêm. Đại là Maha, Bạch là Tát đát đa, Tán cái là Bát lát ba. Gọi chung là Maha tát đát đa bát lát ba. Đấy là danh hiệu của chân ngôn Thủ Lăng Nghiêm.
   Ở khế kinh Đại Bát Nhã hiển giáo được tóm tắt trong bát nhã tâm kinh câu chân ngôn Yết đế ( hành như), Bala yết đê (viên mãn hành như), Ba la tăng yết đế (viên mãn phổ hành như), Bồ đề tát bà ha (Bồ đề tốc thành tựu), Ma ha bát nhã ba la mật đa ( Đại diệu trí huyền diệu màu nhiệm đến bờ giác ngộ bên kia).
   Sự tương ứng này chính là yết đế (chân quán và nhất tâm chân như).
   Bala yết đế (thanh tịnh quán, tự tính thanh tịnh tâm)
   Ba la tăng yết đế (quảng đại trí tuệ quán, Bi quán cập từ quán và diệu dụng từ bi phổ độ chúng sinh tâm).
Hai câu sau: Bồ đề tát bà ha là thành tựu đạo quả vô thượng bồ đề của chư Phật để phát ra diệu dụng, diệu tướng cứu độ chúng sinh là Ma ha bát nhã

Khế kinh đại Bát Nhã phần cơ bản là nói đủ 10 bala mật: Bố thí, trì giới, an nhẫn. tinh tiến, thiền định, đại nguyện, đại lực, đại Bát Nhã, đại phương tiện, và Đại Trí. (Nhất thiết chủng trí) Ba la mật. Nhưng phần cơ bản nhất của khế kinh là nói về Đại Bát Nhã tưc là trí tuệ vô sở đắc huyền diệu mầu nhiệm nhất của chư Phật.
Đại Bát Nhã có ba loại:
1. Văn tự Bát Nhã (là nhân để được cái quả đầu tiên là Văn Tuệ)
2. Quán Chiếu Bát nhã (là nhân để được cái quả thứ hai là Tư Tuệ)
3. Thật tướng Bát Nhã ( để được cái quả thứ ba là Tu Tuệ).
Văn tuệ, Tư tuệ, Tu tuệ là cái tuệ đắc cái vô sở đắc. Vậy ba tuệ này gọi chung là vô sở đắc tuệ. Đó là nhân Tu của Bồ tát Hạnh. Quả tu là Đại Bát Nhã của chư Phật Như Lai.
Chủ yếu của kinh Đại Bát Nhã được Long Thụ Bồ Tát (Tổ sư thứ 14 của thiền Tông Ấn Độ, Tổ sư sáng lập tam luận tông, tổ sư thứ 2 của Mật giáo Đại thừa) nói đầy đủ ở hai bộ luận Đại thừa là Đại Trí Độ Luận và Trung Quán Luận.
Đại trí Độ luận giảng nghĩa toàn bộ khế kinh Đại Bát Nhã. Từ đời quá khứ có đức NHư Lai là Long Chủng Thượng Tôn Vương Phật cũng đã thuyết ra khế kinh Đại Bát nhã như đức Thích Ca Mâu Ni nói sau này. Trước khi nhập Đại Niết Bàn Đức Thích Ca Mâu Ni đã nói lời tiên tri sau này năm trăm năm có các loại ngoại đạo nổi lên, chúng giả danh tu hành theo đạo Phật nhưng tâm chấp trược cái tướng có tướng không rất nhiều. Lúc đó hóa thân của Long chủng thượng Tôn Vương Phật là Long Thụ Bồ Tát sẽ nêu cao đạo lý Đại Thừa nói ra nhiều bộ luận Đại Thừa để phá tan cái chấp trược có không của các ngoại đạo, giả danh tu theo Phật pháp.
(còn tiếp)...

Thứ Bảy, 21 tháng 4, 2012

Khai Thị Phật Tâm

 

(1)
Tới bến Đục trong nắng
Trong đục bởi tự Tâm
Ngày ta về lễ Phật
Phật Tâm có xa gần?
(2)
Tâm ta đồng Tâm Phật
Giác ngộ bởi tự Tâm
 Trong đục từ Tâm hiện
Phật Tâm có trong ngoài?
(3)
Ngày kết hội Chùa Hương
Vạn xuồng đua nhau tới
Phật thường trụ nơi Tâm
Đâu để đến và đi?

( Thân tặng Quảng Ân ngày cùng về Hương làm Phật sự)
Quảng Kiến

Hương Tích - Ngày giỗ Tổ đệ Tam



    "Bái Thầy xuống núi chiều tà
  Suối Yến có người đánh cá
     Rừng Mơ thấp thoáng bóng nhà
     Vẳng tiếng chuông Chùa xa." 
  (Quảng Kiến)


Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Luận về năm tháng ngày giờ theo Phong Thủy


      Hiện nay còn lưu truyền một số phép xem ngày tháng năm và giờ tốt tiêu biểu như sau: Phép Ngũ Linh, Mai hoa dịch số, Tứ đại cát thời, Hoàng Đạo,Lục Độn, Bát Môn, Quỷ Cốc Tử độn toán...
- Phép Ngũ Linh dựa vào việc xác lập quẻ đơn hậu thiên theo năm tháng ngày giờ theo nguyên tắc " Nguyệt thuận hạ nhật, nhật thuận hạ thời" với quẻ đơn tiên thiên dựa vào ngũ hành của giờ lấy quẻ và Thập thiên tinh (Bồng, Nhuế, Xung, Phụ, Cầm, Tâm, Trụ, Nhâm, Anh, Không) kết hợp với địa bàn để lập nên quẻ kép. Sau đó luận cát hung theo Kinh Dịch.
- Mai hoa dịch số dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày (âm lịch) để xác định thượng quái (hay ngoại quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hạ quái (hay nội quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hào động.
Dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ sinh (theo âm lịch) lập quẻ để xem mệnh vận đời người; dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ xem đoán (theo âm lịch) lập quẻ để xem đoán về sự việc, hiện tượng.
- Lục Độn là phép xem ngày theo Lục diệu dựa trên cơ sở số 6 (lục) là số thành đầu tiên của dãy số thành ( 6,7,8,9,10) từ 5 số sinh là 1,2,3,4,5 trong Hà Đồ. Số 6 dùng để chỉ 6 "thần ngày", trong đó có hai thần ngày được coi là tốt hơn là : Đại An, Tiểu Cát tiếp đến là Tốc hỷ, Xích khẩu, Lưu niên và Không vong. Phương pháp này gọi là Độn Lục Nhâm đơn giải để tìm ngày tốt ngày xấu, xuất hiện từ đời Bắc Tống (960-1127 Trung Hoa).
- Quỷ Cốc Tử độn toán là phép xem ngày giờ của Ngài Quỷ CốcTử là Thầy của Tôn Tẫn và Bàng Quyên. Phép xem ngày giờ tốt này theo Tam thần - Tứ tướng và Mệnh-Trọng-Quý.
 
   Như vậy phép xem ngày giờ tốt lưu truyền từ xưa đến nay đã được nhiều người ở nhiều đời khác nhau công nhận là có sự linh nghiệm khi dự báo sự việc bao gồm Thiên Văn, Địa Lý, Nhân Sự. Các phép xem tốt xấu kể trên rất phức tạp và khó hiểu !!! Nhưng có một sự thống nhất chung về thuyết âm dương ngũ hành. Theo các vị cao minh mà Quảng Kiến có điều kiện tham vấn thì điều mấu chốt cơ bản nhất là tính Ngũ Hành của năm tháng ngày giờ làm việc hợp với tuổi của chúng ta (chủ thể, chủ nhà, chủ đất). Tất cả những phép tính khác đều có ý nghĩa bổ sung tăng thêm cái hay cái tốt chứ không phải là ý nghĩa quyết định.
      Tất cả mọi người đều có tuổi Ngũ hành riêng. Cho dù không nhớ được tuổi thì mọi việc tốt xấu vẫn theo tuổi ngũ hành dù có quên chăng nữa vẫn cứ diễn ra. Do đó không bao giờ có cái năm tháng ngày giờ xấu cho tất cả mọi người. Vì năm tháng ngày giờ có tính ngũ hành cụ thể, không có hành nào lại tiêu diệt được tất cả các hành vậy không thể có những ngày xấu toàn bộ như Thập ác đại bại, tứ thời đại sát…vì nói như thế chẳng khác gì một hành Thủy có thể tiêu diệt được bốn hành là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim. Ngược lại cũng không thể có một cái ngày có tính cách làm cho sinh nở ra tất cả như một thượng đế sinh ra tất cả mọi loài thì không bao giờ có cái thượng đế đó. Cũng vì thượng đế đó không thể sinh ra tốt xấu trái nhau để làm hại lẫn nhau. Ví dụ như có thuyết nói ngày giờ được đức Ngọc hoàng đại đế ban ơn thì cái ơn này cũng chỉ ban cho người làm việc thiện chứ không ban cho tất cả mọi người vì trong số đó có một số kẻ độc ác.
       Lại có những trường hợp nói có sao tốt mọi việc là đúng nhưng phải hiểu những việc này là việc thiện, không bao giờ các sao thiên thần đó lại phù trì cho những kẻ chuyên đi làm việc ác. Những sao tốt mọi việc là cách xem giúp cho những người không nhớ được chính mình là tuổi gì có hành gì. Những người này làm việc thiện nhiều thì được phù hộ nhiều, ít thì được phù hộ ít, không làm việc thiện thì không được phù trì. Ngược lại làm việc ác thì nạn nhân sẽ là người bị trừng trị vì đã gây tội ác. Những kẻ quá độc ác thì sẽ bị các thiên thần trừng trị như chúng bị sét đánh chết. Nhưng lúc chết cũng tương ứng với quả báo của chúng. Nếu chưa đủ thời gian chịu quả báo thì dù bọn chúng có làm chuyện ác chúng vẫn chưa bị đánh chết. Cho nên chớ nói tại sao kẻ đó ác thế mà không bị các Thần đánh chết ngay. Vì nói như thế là không hiểu gì về luật nhân quả. (xem bài NHÂN - QUẢ)
            Những sao Thiên thần tốt mọi việc có rất nhiều. Những sao thiên thần ác như La Hầu, Kế Đô cũng rất thông minh. Không bao giờ hai sao này lại đánh người làm việc thiện vì các vị này dù là dòng giống A Tu La nhưng cũng rất hiểu luật nhân quả của Đức Phật dạy. Do đó có những người gặp La Hầu Kế Đô mà vẫn khá giả. Điều đó chứng minh luật nhân quả là đúng.
            Lại có sách nói có những sao chỉ làm được việc này không làm được việc kia. Đây là điều vô lý vì không bao giờ các thiên thần lại cấm làm việc bình thường như làm nhà, cưới hỏi là những việc không phải là việc ác như Sát Đạo Dâm Vọng. Do đó không hề có chuyện sao này làm được nhà nhưng lại không làm được việc kinh doanh…
            Lại có những sách của kẻ tà đạo viết xuyên tạc nói là có sao Thiên tặc, Địa tặc. Đây là sự báng nhạo trắng trợn vì các thiên thần không bao giờ là giặc (Thiên tặc). Các địa thần không bao giờ là giặc (Địa tặc).
            Lại nói có sao Thiên Hỏa là sao gây sự cháy nổ. Không bao giờ các Thiên Thần lại vô cớ gây ra việc này với tất cả mọi người vì kiêng ngày đó tức là đã phỉ báng thiên thần coi thiên thần là kẻ gây ra việc đốt phá. Sao Địa Hỏa là các địa Thần cũng như thế nghĩa là không hề gây ra sự cháy nổ một cách vô cớ.
            Tất cả những luận điệu xuyên tạc đó đã có từ lâu đời. Kể từ khi Suy vưu là kẻ chống lại Vua Hoàng đế cách đây 5000 năm đã bịa ra những chuyện đó. Vua Hoàng đế là người làm ra sách chữa bệnh đông y. Tên Suy Vưu đã xuyên tạc làm ra các sách giả nói trên để bôi nhọ Vua Hoàng đế. Sau này đời Hán có giặc khăn vàng. Đời Đường có bọn đạo sĩ ác như Triệu Quy Chân, đời Tống có bọn gian thần như Tần Cối… Chính bọn chúng đã cho tay sai đem những cái sai lầm đó viết lẫn lộn vào các sách xem ngày giờ tốt xấu để lừa mọi người cho đến ngày nay vẫn còn dư sót lại.
            Cách tính năm tốt chung cho mọi người cũng chia làm hai nhóm Đông Tây Trạch. Năm tốt cho nhóm này thì bình thường cho nhóm kia. Cách tính này lùi liên tục từ số 9 đến số 1 rất nhiều năm. Các số 1 (Khảm) 3 (Chấn) 4 (Tốn) 9 ( Ly) là bốn số Đông trạch của năm sẽ hợp với những người tuổi Đông trạch. Các số 2 (Khôn) 6 (Càn) 7 (đoài) 8 ( Cấn) là bốn số Tây trạch của năm sẽ hợp với những người tuổi Tây Trạch.
            Cách tính thứ 2 là tính theo người Ấn Độ là tính cửu diệu tinh quân từ La Hầu cho đến Thủy Diệu. Đây cũng là cách tính riêng cho Nam và Nữ tốt xấu từng năm.
            Cách tính tháng tốt vẫn là ngũ hành của hoa giáp từng tháng. Tương sinh với tuổi hoa giáp có ngũ hành gì là tốt nhất. Tương khắc là xấu nhất. Cùng ngũ hành là trung bình. Cách tính ngày giờ cũng tương tự như thế.
            Còn cách tính ngày tốt chung cho người làm việc Thiện và giờ tốt chung cho người làm việc thiện thì cũng theo tương sinh tương khắc ngũ hành là đúng nhất. Nếu không nhớ rõ tuổi có hành gì lúc đó mới phải xem sao tốt chung cho việc thiện chính đáng như sau:
1.     Sao Thiên Đức
2.     Sao Thiên Thành
3.     Sao Thiên Giải
4.     Sao Thiên Y
5.     Sao Thiên Hỷ
6.     Sao Thiên Phú
7.     Sao Thiên Khôi
8.     Sao Thiên Việt
9.     Sao Thiên Quan
10.  Sao Thiên Quý
Các sao khác như: Bách Sự Cát Tường ( Đại Minh), Đại Cát Tường, Giải Thần, Lục Hợp, Trường Sinh, Thiên Xung, Thiên mã, Nguyệt Đức.
Xem giờ tốt cho việc làm chính đáng cũng có sao Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Xung, Trường Sinh.
Trường hợp đặc biệt có 2 sao báo hiệu làm việc bị chậm thời gian là sao Triệt, Không và sao Tuần Không.
Quảng Kiến-Nguyễn Việt Hồng
...( Còn tiếp)...

Thứ Bảy, 14 tháng 4, 2012

Tặng Chú Đạo Khôi ngày xuống tóc Xuất Gia

 

2 HẾT 2 CÒN
Phiền não muôn đời nay cạo HẾT
Oán người, oan ta nay giải HẾT
Chúng sinh vô biên CÒN chờ độ
Phúc trí vô biên CÒN đợi tu.
(Quảng Kiến)