Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

Thiền Dục giới (Luân Xa)

1. Thiền Dục giới:

(Thiền dục giới là thiền ở các cõi còn ái dục như người, trời, thần, quỷ )

Là các phép tu luyện như ăn kiểu riêng, uống kiểu riêng, chế thuốc bổ kiểu riêng, luyện tâp bùa chú riêng... nhằm mục đích có các phép thần thông ở Dục giới. Trong các phương pháp ấy, hiện nay phổ thông nhất là phép tu luyện Luân-xa. Luân xa là các huyện đạo trên cơ thể người. Tất cả có 12 luân xa tương ứng với 12 giờ trong một ngày trên cơ thể. Luyện khai mở Luân xa chủ yếu là các huyệt ở phía trước cơ thể, có 7 luân xa gồm: 

- Luân xa số 1 gọi là huyện Hội âm, thành tựu hay gọi là khai mở thì đắc phép Thần Túc Thông.

- Luân xa số 2 là huyện Đan Điền (cách rốn 2 đốt ngón tay ) khai mở được luân xa này thì đắc phép Túc mệnh Thông.

- Luân xa số 3 là huyệt Đản Trung (giao giữa ngực và hai núm vú ), khai mở được thì thành tựu phép Tha tâm thông.

- Luân xa số 4 là huyệt Thiên Đột (ở hõm cổ ) thành tựu thì sẽ đắc pháp Thiên Nhĩ Thông.

- Luân xa số 5 là huyệt Ấn đường (giao giữa hai lông mày và sống mũi ) khai mở huyệt này đắc phép Thiên Nhỡn Thông.

- Luân xa số 6 là Huyệt Cự Khuyết (ngay lỗ rốn ) Khai mở được luân xa này thì hỗ trợ tăng thêm cho phép Thần túc Thông.

- Luân xa số 7 cuối cùng là huyệt Bách hội (giao giữa hai lỗ tai và đường đỉnh đầu chính giữa) thành tựu Túc Mạng Thông.

Việc tu luyện khai mở 7 luân xa này nếu ăn thịt uống rượu và ăn hành tỏi hẹ kiệu là ngũ vị tân thì sẽ bị mắc sai lầm mà người ta thường nói đùa là " tẩu hoả nhập ma", cụ thể sẽ mắc bệnh hoang tưởng hoang đường, lúc nào cũng tưởng mình là thần là thánh cuối cùng sẽ chết vì hoang tưởng đó, bệnh thứ hai là bị kích thích dâm dục quá độ thành ra cuồng loạn dâm.

                  Trong các bộ kinh Trung bộ, trường A hàm, tăng nhất A hàm, Tạp A hàm và các bộ kinh Đại Thừa Đức Phật có kể lại câu chuyện có một nhóm người tu khai mở luân xa thành công đã bay được trên trời, thế nhưng một số ông tiên (Ấn độ gọi là các vị thuật sỹ) có dặn rằng: Khi đang luyện các phép bay trên trời thì đừng sinh tâm tham tài sắc danh thực thuỵ là ngũ dục thế gian, nếu sinh ra sẽ bị mất phép thần thông. Ví dụ vào đời quá khứ có ông Vua bắt tất cả các cung nữ khoả thân múa cho ông ấy xem, ông ấy vỗ tay có vẻ sung sướng lắm. Lúc bấy giờ có một đoàn người đã luyện tập bay được trên trời là đã thành tựu phép mở luân xa Thần túc thông. Bay qua đó sinh tâm thèm khát ái dục lập tức bị mất phép thần thông ngã từ trên cao xuống nặng thì bể đầu chết nhẹ thì gãy hết chân tay tàn phế. 

                  Đó là cái đau khổ thứ nhất của thần thông dục giới là phép khai mở luân xa. Hiện nay bên Tây tạng gọi phép luyện này là "suối nguồn tươi trẻ". Cái đau khổ thứ hai là sinh ra loại người tu khổ hạnh khoả thân trần truồng đi ăn xin, bọn này gọi là phái tu Ni can đa, thuộc lục sư ngoại đạo. Vì trần truồng nên suốt đời bị ruồi muỗi rắn rết đốt nên rất nhiều người bỏ mạng oan uổng hoặc bị thương tật hoá thành bệnh thần kinh.

                  Đó là hai cái đau khổ của thiền định Dục giới.

                  Đức Phật có nói: thân chúng sinh đã bất tịnh thì các luân xa cũng bất tịnh như thân chúng sinh. Tại làm sao lại dựa vào cái uế tạp để tu luyện. Dù có thành tựu thì khi cái thân tan rã thì cái thần thông đó ko còn chỗ dựa cũng mất theo đến đời sau lại phải tu luyện lại từ đầu. Gọi là cực kỳ dại dột. Cũng như luyện nhân điện, có người cũng biết được chuyện này chuyện kia ở tương lai. Có ngươi bị sét đánh, sau khi bị sét đánh thì có luồng điện trong người thì biết được một số chuyện nhưng phải chịu một số bệnh, hoặc là mù loà, hoặc là ốm yếu. Bình thường thì bị bệnh thần kinh, thỉnh thoảng nói ra được một số chuyện người ta nghe người ta thích thì người ta cho ít tiền đồ ăn nhưng suốt đời nghèo khổ có cuộc sống không bình thường, thậm chí mù mắt như bà Vanga người Bungary. Như vậy luyện năng lượng cũng là một phép luyện luân xa, được thì ít mất thì nhiều. Phật dạy những người như vậy là vô cùng dại dột, cực kỳ ngủ si.

                                    Trên đây gọi là phép tu thiền định Dục giới, trong kinh Thủ lăng nghiêm thuyết là 10 phép tu tiên. Phép tu dựa trên sự giả dối của các huỵệt đạo luân xa thì cái quả cũng là giả dối. Mà giả dối là đau khổ.

...còn tiếp...

Phần 2 ( Thiền sắc giới)


(Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng)

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2024

PHƯƠNG PHÁP GIẢI QUYẾT CÁC VẤN ĐỀ CƠ BẢN TRONG PHẬT GIÁO



A. Các Pháp thế gian = Hữulậu = Hữu vi


Các Pháp này bao giờ cũng có bốn phần:

1. Thấy vấn đề = Kết quả cuả vấn đề: 

Đây là các kết quả tốt gọi là thiện hữu lậu là ba cõi Thiên, Nhân, Atula.
Và các kết quả xấu là ba cõi Địa ngục, Ngã quỷ, Súc sinh.

2. Nguyên nhân của vấn đề = Nhận thức vấn đề:

Nguyên nhân của các kết quả tốt ở người là giữ được Ngũ giới
Nguyên nhân của Atula là giữ chưa trọn vẹn ngũ giới, thích đấu tranh quá mức độ do đó phạm vào giới sát nhiều.
Nguyên nhân của Cõi Trời dục giới là thực hành được 10 điều thiện.
Nguyên nhân của Thiên Ma ba tuần (Ác ma) ở cõi trời Tha hóa tự tại thứ 6 dục giới là tuy làm được 10 điều thiện nhưng lại xen kẽ phạm giới bất tà dâm mà có cõi này.
Nguyên nhân của các cõi trời sắc giới là tu 10 điều thiện nhưng có phần hơn là diệt trừ hoàn toàn khả năng tình dục.
Nguyên nhân của các cõi trời Vô sắc giới là cũng như các cõi trời sắc giới nhưng mắc cái lỗi là chấp sự rỗng không hư vô, dễ mắc đến đoạn diệt kiến tà đạo. Do đó hết kiếp ở cõi trời vô sắc giới thì lại quay lại dục giới như cũ.

3. Phương pháp giải quyết vấn đề:

Ở cõi người phải thành tựu tinh thông 5 nghề: Sĩ (trí thức), Công (công nghiệp), Nông (Nông nghiệp), Thương ( thương mại). Và binh (Quân sự). Tất cả 5 nghề này phải tinh thông kèm theo giữ nghiêm ngũ giới.
Ở các cõi trời dục giới thì giữ nghiêm việc thực hành 10 điều thiện nhưng phải biết quy y Tam bảo để có hướng tiến lên tốt ở đời tương lai.
Ở các cõi trời sắc giới thì cũng như các cõi trời dục giới nhưng phải làm thêm việc tu học theo tứ niệm xứ của tiểu thừa Phật Pháp thì tương lai sẽ tu hành tốt theo tiểu thừa Phật pháp.
Ở các cõi trời vô sắc giới thì cũng như các cõi trời sắc giới nhưng phải phá cái chấp hư vô rỗng không để đời kiếp sau tu theo tiểu thừa khi được quay lại làm người.

4. Kết quả của việc làm đúng theo phương pháp giải quyết vấn đề:

Ở cõi người thì thành tựu được: Phú Quý Phúc Lộc Thọ
Ở cõi trời dục giới thì hết kiếp quay lại làm người sẽ tu học theo Phật pháp được viên mãn trong các đời tương lai.
Nếu ở cõi Ma vương ba tuần thì sẽ thoát nghiệp ma, quay lại kiếp người tu học theo Phật Pháp được viên mãn.
Ở các cõi trời sắc giới thì sau khi hết kiếp, quay lại làm người sẽ thành công việc tu theo tiểu thừa Phật pháp. Riêng những người thượng căn ở đệ tứ thiền sắc giới sẽ đắc quả Alahan ở cõi đó nhờ được sự giáo hóa của đức Phật Lô Xá Na là viên mãn báo thân của đức Phật Thích Ca Mâu Ni.
Ở các cõi trời vô sắc giới nếu thực hành đúng phép tu theo tiểu thừa thì kiếp sau quay lại làm người sẽ gặp minh sư thiện hữu giáo hóa cho tu theo tiểu thừa thành công. Những người này sẽ thoát khỏi quả báo ác là bị đọa địa ngục do cái nghiệp chấp hư vô rỗng không gây ra.

(còn nữa)

B. Các pháp xuất thế gian tiểu thừa và trung thừa với việc đặt vấn đề và giải quyết vấn đề

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2024

A LAN NHÃ


Trong bài thơ ngắn này, chúng ta sẽ được dẫn vào chốn A Lan Nhã, nơi tâm hồn được mở rộng và tĩnh lặng. Bài thơ kể về sự tự giác, tu pháp và lòng từ bi, mang đến sự thanh thản và bình an cho cuộc sống. Mời bạn cùng khám phá những dòng văn tinh tế và sâu sắc về đạo Phật. ( lời giới thiệu của Evernote AI)

Chốn A Lan Nhã
Tâm rời vội vã
Quán pháp sâu xa
Một là tất cả.

Chốn A Lan Nhã
Tự giác, giác tha
Tu pháp Phật Đà
Từ Bi Hỷ Xả.

Một là tất cả
Sống đời vị tha
Phá ngũ ấm ma
Đắc Tát đát đa.


(Hình ảnh và bài thơ là nơi Quảng kiến ẩn tu tại Paske Lào năm 2012)

Thứ Bảy, 8 tháng 6, 2024

Pháp thân thanh tịnh kệ

Bài Pháp thân thanh tịnh kệ của Lục Tổ Huệ Năng như sau:
Pháp thân Phật một mô dạng
Nhất khối viên quang hàm vạn tượng
Vô thể tri thể Tức chân thể
Vô tướng tri tướng Tức thật tướng
Vô dị Vô đồngVô hữu vô
Nan xả nan thủ nan thính vọng
Nội ngoại linh quang đáo xứ đồng
Nhất thân trụ tại sát trần thân
Nhất nhất biến lễ sát trần Phật
Nhất Phật quốc tại nhất sa trung
Nhất lạc sa hàm đại thiên giới
Nhất cá thân tâm vạn pháp đồng.

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024

ĐỊA LÝ HỒ THỦY TIÊN THÀNH PHỐ HUẾ



NĂM RỒNG BÀN VỀ RỒNG...ở Huế

Huế có một con rồng được xây dựng trên hồ Thủy tiên trong đồi Thiên an. Hiện nay đang là "linh vật" được giới trẻ chụp hình bắt trend Giáp Thìn. Năm 2016 tờ báo CNN của Mỹ đã giới thiệu về một địa điểm ma mị vô cùng đặc sắc mang tên Hồ Thủy Tiên. "sau bài báo này, khu du lịch bị bỏ hoang này lập tức thu hút khách nước ngoài đến check in vẻ đẹp đầy ma quái, rùng rợn của công viên".
Cảnh quan Hồ Thủy Tiên trước khi xây dựng vốn là một khung cảnh tự nhiên tuyệt đẹp bao bọc, với hồ nước trong vắt chưa khi nào bị cạn, nằm trên đồi Thiên An - nơi được mệnh danh là " Đà Lạt xứ Huế".
Bài viết này nhằm trả lời câu hỏi của một số người bạn về việc tai sao sau khi xây dựng con rồng trên hồ Thủy Tiên thì hồ thường xuyên bị cạn nước?.
Giới hạn ở bài nghiên cứu này chúng tôi căn cứ vào cách xem Thiên văn, Địa lý và Nhân sự là những vấn đề với các khái niệm có thể cùng nhau chấp nhận và thấu hiểu, gọi là dựa trên khoa học thường nghiệm.
Xét về thiên thời năm xây dựng công viên hồ Thủy Tiên từ Canh Thìn đến năm Tân Tỵ (2000-2001) ứng với câu sấm ký của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“ Rồng vào bể cạn có ai hay
Rắn mới hai đầu khó chịu thay…”
“Rồng” ứng với xây dựng con rồng bê tông, “bể cạn” ứng với năm Canh Thìn thuộc kim khí ứng với đầm cạn nước.
“Rắn mới” ứng với năm can chi Tân Tỵ (năm dương lịch 2001, Tân là mới, Tỵ là rắn).
Bài kệ như là dự đoán sự tướng nước trong hồ khô cạn và việc kinh doanh hoang tàn của dự án.
Tuy nhiên Thiên thời vốn xoay vần, nên hết xấu sẽ đến tốt, tại sao qua cái vận khó (22 năm kể từ ngày khởi công) mà vẫn chưa thông, chúng ta cần xét thêm vấn đề ở Địa lý.
Thông qua bình đồ tính toán (hình kèm theo bài), Hồ Thủy Tiên có hướng (trục mạch chảy) từ Tây Bắc xuống Đông Nam là cách vượng thủy khí, thủy sinh mộc nên xung quanh hồ xưa nay cây cối rất tươi xanh. Tại hai đầu trục là vị trí đắc địa và vượng địa của hồ. Không hiểu sao lại xây dựng con rồng ở vị trí long mạch (vượng địa) hướng Đông nam. Và ở vị trí Tây Bắc (đắc địa) thuộc Thủy khí lại xây dựng công trình cao có khối tích Thổ khí tạo ra sự xung đột về mặt Địa lý.
Vạn vật vốn vô tình, chỉ có tâm người hữu ý, ngoài Thiên thời và Địa lợi yếu tố Nhân hòa rất quan trọng để cho cấu trúc các công việc hay dự án được hoàn chỉnh và phát triển bền vững. Nhân hòa lại ở biệt nghiệp riêng của chủ sở hữu. Phần này do chưa có thông tin nên chưa tính rõ, nhưng thông qua kết quả kinh doanh hiện nay thì cũng phần nào dự đoán được Nhân hòa hiện ở trong đại vận kém.
Một số nhận xét theo thiên văn địa lý sơ bộ ở trên tạm để tham khảo và giải đáp, cũng là để trao đổi kiến thức về Địa lý với mọi người.
Mong sao sự thay đổi tới đây của UBND Thừa Thiên Huế về cải tạo dự án sẽ mang lại sắc màu xanh và trong trở lại cho khung cảnh tuyệt đẹp của hồ Thuỷ Tiên.

Thứ Hai, 12 tháng 2, 2024

THỎ NGỘ THANH LONG 2024




“Như thị ngã văn 

Chúng sinh đa nạn

Nhị thập nhật minh

Thỏ ngộ Thanh long

Kê khuyển ngộ xà

Địa tạng bồ tát

Tróc nã chư ma

Mười phương tôn phục

Tứ phương quy gia. “

     Đầu năm luận giải bài kệ sấm ký của Ngài Tuệ Trung Thượng sỹ, là thầy của Ngài sơ tổ Trúc Lâm (vua Trần Nhân Tông). 

     Năm 2024 có can chi Giáp Thìn là năm thanh long, ngày đầu năm mùng 1 cũng là ngày Giáp thìn, sự trùng lặp này theo lịch can chi 700 năm mới có một lần. Hiếm nên là quý, quý thì tốt. 

Nội dung dự đoán về vận hạn liên quan đến nước ta. 

Bài kệ nói đến “ thỏ ngộ thanh long” là ý nói đến từ năm Canh Tý (xưa gọi là Thỏ, sau này theo lịch can chi Tàu đổi thành Tý ) đến năm Giáp Thìn (2020-2023) chúng sinh đa nạn, ứng với khó khăn chung của thế giới về dịch bệnh, khó khăn kinh tế và bất ổn về chính trị. “ Địa tạng bồ tát tróc nã yêu ma” có nghĩa là có nhiều kẻ xấu phạm luật pháp bị bắt xử. Câu “ tứ phương quy gia” là nói đến từ năm 2024 sẽ có nhiều người nhiều tổ chức kinh tế xã hội ở khắp trên thế giới đặc biệt là những người gốc Việt sẽ quay về đầu tư phát triển tại nước Việt Nam. 

    P/s: bài thơ chúc tết mình sáng tác trong hình, cuối năm thường viết dạng liễn thư pháp để treo trong nhà bên nội ngoại và tặng người hữu duyên.

Thứ Năm, 16 tháng 11, 2023

CON ĐƯỜNG THƯỢNG ĐẠO

 

ĐINH LONG PHẠM VŨ

                                              Con đường thượng Đạo

 

                                                                                                             Sonam - Quảng Kiến

 

11.   Con đường thượng Đạo và Phạm vũ trang nghiêm

Thắng cảnh đạt được ở vẻ hài hòa của núi non sông nước, tạo nên bản sắc phong thủy hữu vận lai niên. Đinh Long Phạm vũ là một trong các ngôi chùa thuộc dòng truyền thừa chốn Tổ chùa Hương Hà Nội, vị trí chùa Đinh Long án ngữ nút giao không gian sông núi tại thôn Đồng Văn, xã An phú, huyện Mỹ Đức, Thủ đô Hà Nội. Cùng với Hương Tích Tùng lâm và Diên Khánh Già lam tạo ra một tam giác cân với khoảng cách địa lý 7 km, hình thành nên cách cục “Vĩnh trấn sơn khê”.

Theo Lịch sử Phật giáo Việt NamĐại Việt sử ký bản kỷ toàn thư,  năm 968 sdl. Sau khi lên ngôi và lập ra nhà nước Đại Cồ Việt. Đinh Tiên Hoàng cho lập lại con đường dẫn từ Hoa Lư, Ninh Bình đến ….Thăng Long gọi là con đường thượng đạo. Khuông Việt quốc sư-tức đại sư Ngô Chân Lưu- cùng Nam Việt Vương Đinh Liễn trên đường từ Đường Lâm-Sơn Tây xuống Hoa Lư-Ninh Bình thấy nơi đây (Đồng Văn, xã An Phú, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội)  đường này vắng vẻ, cỏ cây rậm rạp  phong cảnh hữu tình, núi ôm sông bọc nên quốc sư đã cho lập chùa lấy tên là Đinh Long Phạm vũ làm nơi phụng Phật. Chữ Đinh là họ hoàng đế, chữ Long ứng với danh hiệu hoàng đế, cũng để mô tả dãy núi Hương Tích hùng vĩ ở bên tả thanh long của chùa.

Ngày nay vượng khí hội tụ, hội đủ duyên lành, Thượng tọa Thích Minh Hiền cùng Tăng chúng, Phật tử trong sơn môn và thiện tín thập phương phát tâm thiết kế quy hoạch xây dựng chùa Đinh Long, nhằm thiết lập đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh, tạo nơi quy ngưỡng cho quần chúng nhân dân gần xa về lễ Phật, chiêm bái cảnh chùa, rồi thuận duyên tu hành theo lời Thầy tổ để hiện tại thân tâm an lạc, vị lai được thành tựu như ý nguyện.

Nhân duyên nay xưa như vậy, chùa Đinh Long với vị thế đặc biệt của mình hiện tại được tạo thành bởi trục chính đạo theo hướng Đinh tọa Quý (hướng Nam) với điểm nhấn kiến trúc bắt đầu là công trình bảo tháp Liên Hoa cao 52m, kết thúc bởi tòa Đại Hùng bảo điện. Ngôi Tam bảo được thiết kế hình chữ công, chồng rường đấu củng, hệ thống mái gỗ trùng thiềm điệp ốc-trùng trùng điệp điệp với 20 mái hoa đao hiếm có trong thời đại hiện nay. Tổng thể không gian kiến trúc chùa được cấu thành bởi các hạng mục theo quy chuẩn của  thất đường Già lam, hướng Ly và hướng Đoài được bao bọc bởi các đầm sen, hướng Chấn và Khảm là trục đường vua Đinh uốn lượn theo dòng sông Thanh Hà. Tổng thể mặt bằng chùa hình chiếc lá Bồ đề, biểu tượng con thuyền Bát nhã đưa chúng sinh về bến Giác. Đó là nhân và cũng là duyên tôn tạo xây dựng Đinh Long Phạm vũ.

2.     Sở duyên duyên

Khế kinh đại thừa Pháp tướng tông có nhiều bài nói về cái duyên. Trong bốn duyên là Nhân Duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên. Suy luận về việc thế gian thì Nhân duyên là cái duyên của Nhân tài, Tăng thượng duyên là cái duyên của Thiên tài. Sở duyên duyên là cái duyên của Địa tài. Nhân tài là nhân hòa nhân sự, Thiên tài là thiên văn thiên thời. Địa tài là địa lý, địa lợi. Duyên thứ tư là Đẳng vô gián duyên là duyên chung của cả ba Thiên-Địa-Nhân.

Việc xây dựng bảo tháp Liên hoa và các hạng mục công trình chùa Đinh Long chính là sở duyên duyên, là cái duyên môi trường để trợ lực cho chúng sinh từ thế gian tiến lên cảnh giới xuất thế gian. Mặt bằng tháp là cấu trúc đồ hình Mandala với bốn cửa tượng trưng cho tứ trí, bao gồm: Đại viên kính trí, Bình đẳng tính trí, Diệu quán sát trí và Thành sở tác trí, vị trí đỉnh tháp ở giữa đại diện cho Pháp giới thể tính trí là tổng hợp của bốn trí xuất thế gian được chuyển hóa từ bát thức. Chiều cao tháp là 51,8 m, với 13 tầng mái và đỉnh tháp được chế tác bằng đồng(trên 2,1 tấn). Tại bốn cạnh của mỗi tầng tháp được tôn trí tượng Bồ tát Quán Âm. Tầng tháp trên cùng tôn trí tôn tượng Đại Nhật Như Lai. Tổng thể cấu trúc các tầng mái thu dần tạo hình một búp sen thanh tịnh, biểu tượng cho Phật tính thanh tịnh thường trụ của tất cả chúng sinh.

       Người xưa tin rằng tạo tháp làm hưng khởi việc học, khoa cử công danh đỗ đạt. Thường những địa phương nào kém đường học vấn, lâu năm không có người đỗ đạt thì chọn đất dựng Văn bút tháp, đó là dụng sự của pháp thế gian. Việc tạo dựng bảo tháp Liên Hoa về mặt trợ duyên cũng như vậy. Phong thủy Địa lý là pháp thế gian là cái phần tướng của Sở Duyên Duyên. Cách cuộc tốt đẹp của phong thủy sẽ tạo ra nhiều lợi ích cho xã hội, tạo ra nhiều thế hệ nhân tài. Tích tụ lâu ngày sẽ tạ ra nền văn hiến. Cái văn hiến của thế gian nếu biết dùng đúng chỗ đúng lúc thì cũng là cái duyên cho chúng sinh xuất thế gian theo Phật Pháp. Theo phong thủy học, các hướng nam trũng, đất nhẹ, địa khí tràn ra, khó có nhân tài, vì thế thường dựng tháp để trấn địa, tháp hình búp sen như ngọn bút là biểu tượng của giáo hoá, học hành.  

      Việc này phù hợp với lời dạy của Đức Phật ở kinh Thủ Lăng Nghiêm. Khi nói về phép viên thông Địa Đại, Đức Phật nói với Bồ tát Trì Địa tu pháp môn này chuyên môn làm việc phúc đức xây dựng chùa để làm đạo tràng tu tập hay làm đường, làm cầu, làm nhà cho dân chúng. Sau này Trì Địa Bồ tát gặp Đức Phật Không Vương. Đức Phật dạy ông làm việc tốt này nhưng cần phải hiểu cái tâm. Tâm có bình đẳng tốt đẹp thì thế giới mới bình đẳng tốt đẹp. Đúng như câu nói của chư Tổ:

Có Tâm thế gian tốt đẹp là có thiện hữu lậu. Có thiện hữu lậu thì sẽ có Long mạch tụ chính khí.

Có Tâm xuất thế gian bình đẳng thì sẽ có các cõi Tịnh Độ thập phương thanh tịnh tốt đẹp.

   Quan điểm của nhà Phật đối với phong thuỷ địa lý xưa cũng như nay là “Trạch đắc long xà địa khả cư” cuộc đất đắc địa thì môi trường xung quanh tốt đẹp. Song quan trọng hơn cả là trong lòng-nội tâm- cũng phải có phong thuỷ tốt đẹp. Nghĩa là nội tâm con người có:

- Thông gió tốt (Dòng suy nghĩ thông suốt)

- Ánh nắng tốt (Nhiệt tâm, cởi mở)

- Tầm nhìn tốt (Hướng tới tương lai)

- Con đường tốt (Bồ đề chính Đạo)

 Đây chính là long mạch tốt đẹp nhất, tuyệt vời nhất trong nội tâm mỗi con người. Như ta biết vạn vật trên thế gian này, chúng ta phải quan sát thấu đáo, thấu triệt. Hiểu rõ thiên có thiên lý, địa có địa lý, nhân có nhân lý, vật có vật lý, tâm có tâm lý…Trong thế giới Sa bà duyên sinh này, bất kỳ vật gì cũng có cái lý riêng biệt của nó. Địa lý phong thuỷ đương nhiên cũng nguyên lý. Địa lý là dựa vào địa hình và phương vị thiên thể mà sinh ra ảnh hưởng tác động tới con người, đây phương thức hoàn toàn tự nhiên. Thuận theo lẽ tự nhiên thì ta có thể nắm được thời cơ thuận lợi, đạt được địa thế tốt của núi sông, đất nước. Trái với lẽ tự nhiên, sẽ có kết quả ngược lại. Địa lý phong thuỷ cố nhiên có nguyên lý của nó. Song không phải là chân lý cứu cánh.

    Quan điểm của Phật giáo về thời – không (không gian bốn thời gian ba) là vô biên, vô cùng vô tận, không có ranh giới. Sinh mệnh của ta ở khắp nơi, không chỗ nào không có mặt thì làm gì có chuyện phân chia phương vị thời – không. Bản thể tự tâm chúng ta chu biến khắp pháp giới, khắp cõi hư không, ngang khắp mười phương, dọc cùng ba đời (quá-hiện-vị lai). Dung hoà nhất thể với thời - không vô hạn, vì vậy phương vị không ở đâu khác, mà nó ở ngay trong nội tâm của mỗi con người.

Sách “Sơn thủy trung can tập” viết rõ : “Núi hướng về không bằng có dòng nước hướng về, dòng nước hướng về không bằng có dòng nước vây quanh, dòng nước vây quanh không bằng có dòng nước tụ. Dòng nước tụ thì long hội, long hội thì đất lớn”. Đây chính là địa lý phong thuỷ của chùa Đinh Long, lời nói không tới, chỉ khi chúng ta trực hiện mới có thể thấy và biết.

Vậy có thơ rằng:

Tịnh tướng, tính chân: thể đó mà

Vô biên diệu dụng: Nhất liên hoa

Lá cành cội rễ thành hoa quả

Lâu chóng nhỏ to lực tác ra

Duyên khởi trùng trùng: vô lượng pháp

Nhị môn tích bản: Nhất là đa

Thị khai ngộ nhập Phật tri kiến

Diệu pháp Liên Hoa: tướng Phật đà.

 

                                                          Long thành, trọng đông Quý Mão-2023