Thứ Ba, 2 tháng 9, 2025

TIẾN TRÌNH TU CHỨNG PHẬT ĐẠO



Tiến trình tu chứng theo Bồ tát đạo, hay Đại thừa, là một con đường tu học sâu rộng và viên mãn trong Phật giáo, nhằm mục đích giác ngộ hoàn toàn và cứu độ tất cả chúng sinh.

Dưới đây là các khía cạnh chính của tiến trình này dựa trên các kiến thức mà Quảng Kiến đã học hỏi trong 15 năm nghiên cứu Phật pháp:

1. Mục tiêu và Bản chất của Bồ tát đạo (Đại thừa)

  • Vượt lên Tiểu thừa và Trung thừa: Tiểu thừa và Trung thừa tập trung vào việc phá trừ "ngã chấp" để chấm dứt "phần đoạn sinh tử" và đạt "vô dư niết bàn". Tuy nhiên, các vị A la hán và Bích chi còn chấp vào "pháp chấp tướng", nghĩa là còn coi sự sinh tử, niết bàn, phiền não, giác ngộ là có thật, và còn "sở tri chướng" cùng "biến dịch sinh tử". Bồ tát đạo (Đại thừa) vượt qua những chấp trước này để đạt được giác ngộ viên mãn.
  • Phật tính sẵn có: Tất cả chúng sinh đều "bản lai cụ túc Phật tính thường trụ bất ngộ tối thượng, rộng lớn, bình đẳng với chư Phật. Vô minh là nguyên nhân che lấp bản tính này, do mê muội nhận các hình tướng giả dối của 7 đại (địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến, thức) làm thân và tâm.

2. Phát Bồ đề tâm và Hạnh nguyện

  • Nền tảng của Phật học: Phát Bồ đề tâm là căn bản của việc học Phật, là điều khẩn cấp để tu hành và lập nguyện. Quên mất Bồ đề tâm mà tu thiện pháp bị coi là hành động của ma vương.
  • Tám sắc thái tâm nguyện: Người tu cần cứu xét tâm mình để bỏ tà, ngụy, tiểu, thiên và lấy chánh, chân, đại, viên. 
    • Tà: Tu hành vụ lợi, háo danh, ham vui hiện tại hoặc cầu vui mai sau.
    • Chánh: Không ham danh lợi, không màng vui thú, chỉ vì thoát sinh tử, chứng Bồ đề.
    • Chân: Kiên trì cầu Phật đạo, hóa độ chúng sinh, không thoái chí dù đường xa khó.
    • Ngụy: Có tội không sám hối, có lỗi không trừ bỏ, trong bẩn ngoài sạch.
    • Đại: Giúp tất cả chúng sinh cùng thoát khỏi luân hồi.
    • Tiểu: Chỉ lo cho bản thân.
    • Thiên: Cứu khổ cho một số ít chúng sinh.
    • Viên: Thấy tất cả các pháp đều không có tướng, không có tự tính, dùng tâm vô tướng để phát nguyện và thực hành vô tướng.
  • Mười lý do phát Bồ đề tâm: Bao gồm nhớ ơn cha mẹ, sư trưởng, thí chủ, chúng sinh và sám hối nghiệp chướng để cứu độ phổ quát.
  • Hạnh Phổ Hiền Bồ Tát: 10 hạnh nguyện của Đức Đại hạnh Phổ Hiền Bồ Tát là giáo pháp Đại thừa chân thật, thực hành sẽ đạt Đạo vô thượng đại Bồ đề viên mãn.
  • Cứu khổ ban vui (Giác tha): Lý do để Tiểu thừa và Trung thừa tiến lên Đại thừa là cứu khổ ban vui. Bồ tát phải thị hiện các thân khác nhau để hóa độ chúng sinh, bởi giác ngộ hoàn toàn chỉ đạt được khi công hạnh giác tha viên mãn.

3. Các cấp độ tu hành và phương pháp

  • Giới - Định - Tuệ: Đây là ba môn học cơ bản. 
    • Giới: Trì giới thanh tịnh, không phạm các việc ác. Bồ tát giới bao gồm việc tránh các hành vi sát sinh, trộm cắp, tà dâm, vọng ngữ và ẩm tửu. Trì giới Ba-la-mật là không chấp vào người trì giới, giới được trì, thiện, ác hay chúng sinh được hóa độ.
    • Định: Thu nhiếp tâm ý yên lặng, không loạn động theo ham muốn.
    • Tuệ: Khi tâm yên tĩnh, thanh tịnh sẽ sinh ra trí tuệ chân chính để phân biệt hay dở, lợi hại, tránh mê hoặc.
  • Tiệm thứ tu hành Đại thừa (các bước tuần tự):
    1. Không ăn ngũ tân: Tránh 5 thứ rau gây dâm dục (ăn chín) và sân giận (ăn sống), vì các thiện thần không phù hộ người ăn chúng.
    2. Ăn đồ nấu chín và ăn chay: Ưu tiên đồ nấu chín, tránh đồ sống/tái. Thực hành trường chay hoặc giảm thịt để không mắc nợ máu thịt chúng sinh. Điều này giúp tâm nhẹ nhàng, giải thoát, phù hợp tu thiền định Đại thừa.
    3. Trì Đại giới Bồ Tát và Thiền định Đại thừa: Không để sáu căn nhiễm sáu trần (mắt không tham sắc, tai không tham tiếng, v.v.). Thực hành thiền định Đại thừa để tâm hoàn toàn thanh tịnh, như rửa sạch bình chứa độc tố. Khi tâm thanh tịnh, trí tuệ sáng suốt sẽ phát ra, dẫn đến chứng đắc các đạo quả Bồ tát và Phật.
  • Ba phép quán (Không quán, Giả quán, Trung đạo chính quán):
    • Không quán: Quán thân tứ đại, sáu căn, sáu trần, sáu thức là huyễn hóa, giả dối. Mục tiêu là làm cho sáu căn không bị nhiễm sáu trần, khiến các thức thanh tịnh, nhận ra cái tâm chân thật không ô nhiễm, bất động và chu biến (vô chướng ngại).
    • Giả quán: Quán các pháp tuy là huyễn hóa, giả dối nhưng vẫn có tác dụng tương đối trong việc giáo hóa chúng sinh.
    • Trung đạo chính quán: Quán cả "chỉ" (đình chỉ vọng niệm) và "quán" (thị hiện hạnh từ bi) đều là huyễn hóa. Đây là "tịch chiếu song hành", công đức và trí tuệ đều viên mãn.
  • Quán từ bi, vô thường, vô ngã: Quán chiếu sự khổ đau của chúng sinh để phát khởi lòng từ bi, sẵn sàng hy sinh để cứu giúp. Quán tâm vô thường (biết ý thức thay đổi, không thật) và pháp vô ngã (thấy các pháp không có tự tính, do đối đãi mà thành) để phá trừ thường kiến chấp có linh hồn bất diệt.
  • Tứ chánh cần và Tứ như ý túc: Bốn sự siêng năng chân chánh (ngăn ác đã sinh, không làm ác chưa sinh, làm thiện đã sinh, làm thiện chưa sinh) để giữ giới và phát triển định tuệ. Bốn chỗ nương tựa phát thần thông (dục, tinh tiến, định, quán) để cân bằng định và tuệ.

4. Vượt qua các chấp trước và tà kiến

  • Phá ngã chấp và pháp chấp: Bồ tát đạo đòi hỏi phải phá hết cả "ngã chấp tướng" (coi thân tâm giả dối là thật ngã) và "pháp chấp tướng" (chấp vào sự thật của các pháp, dù là xuất thế gian).
  • Trừ vô minh: Vô minh là nguyên nhân của mê lầm, khiến chúng sinh chấp vào bốn tướng: ngã tướng, nhân tướng, chúng sinh tướng, thọ giả tướng.
  • Khắc phục tà kiến (Bệnh Chỉ, Bệnh Nhậm, Bệnh Diệt):
    • Bệnh Chỉ: Sai lầm khi cho rằng chỉ cần mặc kệ thế gian mà không làm gì, sẽ thoát khổ. Phật dạy "chỉ" là đình chỉ các việc ác hữu lậu, hữu vi để thoát luân hồi, chứ không phải mặc kệ.
    • Bệnh Nhậm: Sai lầm khi cho rằng mọi việc cứ từ từ vì đã có định đoạt của "thượng đế". Tu hành cần tinh tiến nhanh chóng khi đủ duyên.
    • Bệnh Diệt: Sai lầm khi cho rằng phải nhanh chóng diệt trừ mọi thứ trái ý. Diệt ở đây là diệt cái ác để sinh cái thiện.
  • Không ỷ lại vào Tạo hóa/Thượng đế: Phật pháp nhấn mạnh luật nhân quả trùng trùng duyên khởi, phủ nhận quan niệm về một đấng tạo hóa ban thưởng hay trừng phạt.

5. Kết quả của tiến trình tu chứng Bồ tát đạo

  • Chuyển thức thành trí: Các vị Bồ tát chuyển hóa tám thức thành bốn trí tuệ của Phật: Đại viên cảnh trí, Bình đẳng tánh trí, Diệu quán sát trí, Thành sở tác trí.
  • Đắc Đại Bồ đề và Đại Niết bàn: Khi ngã chấp và pháp chấp được trừ diệt, các chủng tính giả dối (ngoại đạo, chúng sinh, Tiểu thừa, Trung thừa thiên lệch) sẽ biến mất. Chủng tính chân thật (Như Lai chủng tính) sẽ hiện ra hoàn toàn, bao gồm Đại Bồ đề (Pháp thân thanh tịnh) và Đại Niết bàn (bản tính thường trụ, bất sinh bất diệt).
  • Vô trụ xứ Niết bàn: Dù thị hiện thân để giáo hóa chúng sinh ở bất cứ đâu (ví dụ Quán Thế Âm Bồ Tát thị hiện thân Mã đầu ở cõi súc sinh, địa ngục), Bồ tát không hề bị cái khổ của cõi đó chi phối.
  • Giác hạnh viên mãn: Thực hành Bồ tát hạnh là "tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn". "Công" là công phá mê lầm của mình và chúng sinh; "Đức" là trở về bản tính vô phân biệt bình đẳng.
  • Thành Phật: Mục tiêu cuối cùng là hoàn toàn nhập với tính viên giác từ xưa, đạt Phật quả vô thượng, thanh tịnh, sáng suốt.
  • Độ vô lượng chúng sinh: Người thành Phật sẽ giúp rất nhiều người trừ mê, quay về giác ngộ, nhận ra Phật tính của chính mình.

 

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025

Đêm trăng mây gió

 

Đêm ơi!
Ta hỏi đêm này,
Bao giờ đêm sáng
Như ngày không mưa. 


Trăng ơi!
Sáng ở góc trời
Để cho chồi nhỏ
Tựa cành đung đưa. 


Mây ơi!
Hãy nhớ núi cao
Gió ơi !
Hãy nhớ rì rào trên cây


Người ơi!
Đời khổ lắm ư?
Chân tâm ơi dậy!
Xoá tù vô minh.


Ta ơi!
Sống với chân tình,
cùng bao đạo hữu
tình thân Đạo Tràng. 

Thứ Sáu, 14 tháng 2, 2025

LƯƠNG TƯỚNG

Mạn đàm về LƯƠNG TƯỚNG


Các vị tướng súy nổi tiếng xưa nay, theo binh thư ghi chép lại, người tướng tài phải rõ được :NGŨ ÂM -  NGŨ TRẬN - NGŨ TƯỚNG - NGŨ HƯỚNG - NGŨ CHƯỚNG.

            Nói về Ngũ âm là nói về năm âm thanh gốc của vũ trụ không thay đổi là Cung, Thương, Giác, Chủy, Vũ.

            Về Ngũ trận pháp, cổ kim có 5 loại trận pháp căn bản từ đó biến dụng ra mà dùng đó là:Thiên Trận, Địa Trận, Nhân Trận, Thần Trận, Nhẫn Trận.

            Luận về Ngũ tướng là nói về 5 hạng tướng, bao gồm:

- Thần tướng: Lấy thời để tỏ bày, lấy đất để biến hóa, lấy Nhân để sử dụng.

- Cường tướng: Hạng tướng không cần xét thiên thời địa lợi khi hành binh, ai nghe đến cũng sợ hãi.

- Mãnh tướng: Giỏi về biến hóa trận thế, ra quân bất ngờ, cử động thần diệu, một ngựa một kiếm tung hoành về phía trước.

- Lương tướng: Bên ngoài thì uy nghêm, bên trong thì nhân nghĩa, ở giữa thì mạnh mẽ.

- Uy tướng: Lấy tín nghĩa, thưởng phạt rõ ràng.

 - Lương tướng (良將) là một khái niệm trong binh pháp và lịch sử quân sự, dùng để chỉ những vị tướng tài giỏi, có đức độ, mưu lược xuất sắc và trung thành với đất nước hoặc quân chủ mà họ phục vụ.

Cụ thể:

Đặc điểm của một Lương tướng

1. Tài mưu lược – Có khả năng bày binh bố trận, điều binh khiển tướng, biết cách ứng biến linh hoạt trên chiến trường.

2. Dũng cảm, quyết đoán – Không sợ khó khăn, nguy hiểm, dám đối mặt với thử thách.

3. Nhân nghĩa và đức độ – Đối xử tốt với binh sĩ, được lòng quân, không tàn bạo vô cớ.

4. Trung thành và tận tâm – Luôn đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết.

5. Biết dùng người – Nhận diện nhân tài, đặt đúng người vào đúng vị trí.

Một số Lương tướng tiêu biểu trong lịch sử

Hán Cao Tổ Lưu Bang từng ca ngợi Hàn Tín là “Lương tướng” vì tài năng quân sự kiệt xuất.

Gia Cát Lượng (Thời Tam Quốc) là hình mẫu về một vị Lương tướng mưu trí và tận trung.

Nhạc Phi (Nhà Tống) với câu nói nổi tiếng “Tận trung báo quốc”.

Trần Hưng Đạo (Việt Nam) được xem là Lương tướng kiệt xuất, lãnh đạo quân dân đánh bại quân Nguyên – Mông.

    Lương tướng trong binh pháp. Khái niệm này xuất hiện nhiều trong Binh pháp Tôn Tử, “Một Lương tướng không chỉ giỏi chiến đấu mà còn biết cách giữ gìn sức mạnh của quân đội, biết thời điểm tiến lui, không đánh trận vô nghĩa.”

    Luận về Tướng hay có năm điều: Dũng,Trí, Nhân, Tín, Trung. Dũng mà coi thường cái chết dễ bị hại, Trí mà nhút nhát thì khốn đốn, Nhân mà ái kiến thì sinh phiền nhiễu, Liêm mà không thương người thì bị khinh nhờn, Cương mà chỉ theo ý mình thì thành tai hại. Nhu mà hay nghe người thì bị chèn ép.

    Bàn về cái hạnh xưa nay của người làm tướng thì đối với mình phải trong sạch, đối với kẻ sĩ thì quý trọng. Bởi thế cho nên nếu tướng súy không nghe lời khuyên can thì các anh hùng sẽ lẩn tránh; tướng không nghe theo kế sách hay thì mưu sĩ sẽ bỏ đi; coi thiện ác như nhau thì kẻ hiền và người ngu ở lẫn lộn, thưởng phạt lẫn lộn thì giềng mối sẽ tan rã; thường mừng thì thiếu uy nghiêm; thường giận thì lòng người xa lìa; nói nhiều thì cơ mật tiết lộ; ham thich nhiều thì tâm trí nghi ngờ, mê loạn: khoan dung thì làm cho quân sĩ cảm kích, hung bạo thì làm cho quân sĩ tức giận.

Cho nên phương châm sống của tướng súy nên:

    Xem nhẹ tiền của, sắc đẹp để giữ mình trong sạch;Tránh xa việc hiềm nghi để vượt lên; Lặng lẽ lo xa để khỏi thất bại; Tùy theo thời cơ mà biến hóa cho thuận tiện để lập công; Rộng rãi với người, dốc lòng làm việc để quy tụ tình thương; Nghe điều lành, đuổi bỏ kẻ gièm pha để tiến xa; Trước đo lường, sau hành động để mà ứng biến; Trước tin sau nói để hàng phục kẻ dưới; Trừng phạt tội lỗi, tưởng thưởng công lao để sửa người; Xét xưa rõ nay để soi sáng cho người; Coi rẻ sắc đẹp, quý trọng người để được người; Lìa bỏ việc tư, liều thân vì việc công để giữ nước; Thần sắc phải ngay thẳng, hình dung phải đoan trang; Đánh trận như sấm sét, sắp đặt khéo léo như quý nhân; Suy tư như ánh chiều, mệnh lệnh như sương tuyết; <break time=0.5s/>Được như thế mới đảm đương được việc lớn của quốc gia.

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2024

Thư trả lời của Hậu học Quảng Kiến về: Thật đức và hư đức của các pháp




Thưa Thầy,


Trong bộ luận Đại Trí Độ, có nói về hai phương diện của một pháp: “sở hữu tính” (tính riêng biệt) và “tột sở hữu tính” (tính phổ quát, bản thể tối hậu). Cũng vậy, các kinh Duy Thức và Lăng Già dạy rằng, “tự chứng phần” của mỗi chúng sinh là riêng biệt, tốt xấu tùy theo nghiệp duyên huân tập. Tuy nhiên, "bản thể chân thật không” - lại đồng nhất nơi tất cả. Đây chính là ý nghĩa của “Duy Thức Tính”, cũng là “tột sở hữu tính” mà Bồ-tát Long Thọ đề cập từ trong bộ Bát Nhã.


Ví như nước có tính ướt, lửa có tính nóng - đó là “sở hữu tính”. Còn "tột sở hữu tính", tức tính chân không, là điều mà kinh Lăng Nghiêm giảng:


Tính thủy chân không, tính không chân thủy;

Tính hỏa chân không, tính không chân hỏa.


    Đây là nghĩa sâu của lý “không”, mà Thầy cần quán chiếu kỹ lưỡng hơn để nhận ra đạo lý viên dung trong pháp giới.


    Nay xin bàn chi tiết về thật đức và hư đức của ngũ hành (Kim, Hoả, Mộc, Thổ, Thuỷ). Thật đức hay hư đức chính là cảnh giới mà mỗi người cảm nhận tùy theo nghiệp thức. Từ tướng phần (cái được thấy) thông qua kiến phần (cái thấy) mà hình thành tự chứng phần (cái biết riêng của mình) – tức là cái “ngã” của mỗi chúng sinh. Cái ngã này, tùy theo chủng tử huân tập nơi A-lại-da thức, chiêu cảm ra cảnh giới tốt hoặc xấu.


Thật đức là pháp thuận duyên, giúp tăng trưởng quả thiện. Ngược lại, hư đức là pháp trái duyên, khiến nhân thiện gặp trở ngại, hoặc dẫn đến quả xấu. Như vậy, tốt hay xấu không nằm ở pháp, mà ở cách vận hành của các pháp trong sự tương tác nhân quả. Đây cũng chính là ý nghĩa của “bất cấu bất tịnh” trong Bát Nhã.


Cụ thể:

Thuỷ biểu hiện tín và bất tín, hình thái là hãm hoặc tụ.

Hoả biểu hiện trí và ngu, thật đức là tráng lệ, hư đức là trống rỗng.

Địa biểu hiện nhân và bất nhân, thật đức là thuận, hư đức là nghịch.

Kim biểu hiện nghĩa và bất nghĩa, thật đức là kiện (mạnh), hư đức là nhược (yếu).

Mộc biểu hiện lễ và bất lễ, trạng thái là linh động hoặc trì trệ bất hòa.


Ngũ hành thuộc về ba đại trong bảy đại mà Đức Thế Tôn giảng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm: Địa đại, Thuỷ đại, Hoả đại. Trong Địa đại có ba yếu tố: Thổ, Kim, Mộc. Tiếp đến là Không đại (là vô tướng của ngũ hành) và Phong đại (sự vận động của ngũ hành). Hai đại cuối là Kiến đại và Thức đại, thuộc về tâm pháp, 5 đại trước thuộc về sắc pháp.


    Người tu, khi bắt đầu cần thấu rõ bản chất, tính, tướng, dụng, của ngũ hành, tiến lên quán thông bảy đại, dần đạt đến viên thông pháp giới. Theo kinh Viên Giácba đại đầu giúp phá ngã chấp nơi sắc pháp, còn bốn đại sau phá pháp chấp nơi tâm pháp. Đây chính là mục tiêu tối hậu của sự tu tập – vượt thoát cả tướng hữu vi lẫn vô vi, đạt đến chân như bình đẳng.


Lời lẽ nơi đây khó trọn ý, mong Thầy quán xét thêm và chúng ta sẽ cùng nhau bàn rộng hơn vào dịp khác.


Kính bút.