Thứ Sáu, 9 tháng 8, 2013

PHẬT THÍCH CA MÂU NI


NH TƯỢNG PHẬT THÍCH CA MÂU NI

Giác ngộ thuở xưa cội Bồ Đề
Thế tôn tỏ rõ đường về Chân Như
Chúng con giờ cứ huyễn hư
Đuổi hình bắt bóng cũng từ tâm mê
Nơi xa con đã trở về
Nơi đây cõi Phật Bồ đề tâm linh
Đạo tràng vang vọng lời kinh
Xóa trong con những ngục hình thế gian
Ngày xưa sinh tử gian nan
Ngày nay ơn Phật Niết bàn nguyện tu.

Trong các tôn tượng Phật, thường hay gặp nhất là tôn tượng Phật Thích Ca Mâu Ni. Phật Thích Ca Mâu Ni là Đức Phật lịch sử. Theo sử sách ghi lại, Đức Phật là thái tử con vua Tịn Phạn, thuộc bộ lạc Thích Ca ở nước Ca tỳ la vệ của Ấn Độ thờ cổ đại. Nay thuộc địa phận của nước Nepal. Ngài sinh vào khoảng thế kỷ thứ 6 trước công nguyên, tục tính là Kiều đạt ma, tên gọi là Tất Đạt đa.
          Tương truyền rằng, mẫu thân của Ngài là Ma da phu nhân, sau khi sinh hạ ngài ở vườn Lâm Tỳ Ni được 7 ngày thì bà tạ thế. Ngài được di mẫu là Ba đồ Ba đề phu nhân nuôi dưỡng mà trưởng thành. Từ nhỏ Tất đạt đa đã được tíếp thu một nền giáo dục theo tư tưởng văn hóa truyền thống rất nghiêm cách và còn phải luyện tập thành thục các môn cưỡi ngựa, bắn tên và võ nghệ... Vì thế, khi lớn lên đã trở thành người tài giỏi toàn diện, phụ thân của Ngài rất hy vọng sau khi kế vị Ngài sẽ trở thành một bậc minh quân đủ tài thao luợc. Vậy mà sự thực lại không diễn ra, không như mong muốn ấy.
          Do những sự biến động của xã hội và những nguyên nhân sinh lý của con người đã dẫn đến muôn vàn nõi thống khổ và phiền não trong vòng sinh - lão - bệnh - tử. của dân chúng. Điều này đã tác động sâu sắc đến cảm xúc của Thái tử Tất Đạt Đa. Ý nghĩ xuất gia tu hành đã thôi thúc Ngài phải đi tìm con đường giải thoát cho mọi người. Tịnh Phạn Vương đã bằng mọi nỗ lực, mọi biện pháp để ngăn cản ý định của Ngài, nhưng ngài vẫn quyết tâm từ bỏ tất cả để lên đường xuất gia tìm học đạo.
          Sau khi xuất gia, Tất đạt đa tìm đến một số học giả tôn giáo nổi tiếng với hy vọng sẽ học hỏi được ở họ phương pháp tu luyện để giải thoát, nhưng Ngài đã hòan tòan thất vọng mà tu luyện để giải thoát, nhưng Ngài đã hòan tòan thất vọng mà ly khai họ để tìm đến với đường tu khổ hạnh. Khổ hạnh là một phương pháp tu hành rất phổ biến thời bấy giờ. Người tu khổ hạnh cho rằng: Cuộc sống của mình chính là sản phẩm của tội ác, thân xác của mình chính là chướng ngại rất lớn để đến sự giải thoát về tinh thần. Thái tử Tất đạt đa đã trải qua sáu năm khổ hạnh, ghánh chịu hết trăm ngàn cay đắng, hình hài khô héo, thân thể gầy mòn, nhưng vẫn chẳng thấy con đường giải thoát ở đau. Sau đó Ngài quyết định từ bỏ đường tu khổ hạnh, để đến bờ sông Ni liên Thiền, tắm gội sạch cáu ghét đã tích tụ trong sáu năm trời, lại tiếp nhận cháo sữa dê của người mục nữ để dần dần khôi phục thể lực. Ngài chọn một nơi có tên là Già da, ngồi thiền tọa trên bó cỏ dưới Cây Ba la ( Cây Bồ Đề ) mặt hướng về phương Đông để nghiền ngẫm tư duy. Suốt bảy bảy bốn mươi chín ngày đêm “ tĩnh lự thiền tứ”. Ngài đã tự chiến thắng mọi sự cám dỗ, nhiễu lọan của ma chướng và phiền não để cuối cùng đã triệt ngộ được căn nguyên luân hồi và phương pháp giải thoát khỏi những khổ não vô tận của kiếp người. Ngài đã thành tựu Đại giác vô thượng trở thành Phật.
          Sau khi thành Phật, Thái tử Tất đạt đa được mọi nguời tôn xưng là Thích Ca Mâu Ni, với ý nghĩa là thánh nhân của dòng họ Thích Ca. Phật Đà tìm đến vườn “ Lộc dã uyển” ở gần thành Ba la nại tìm 5 vị tỳ kheo đã từng theo hầu ngài khi tu khổ hạnh. Trong đó có Kiều Trần Như sau trở thành một trong mười đại đệ tử của Phật Đà, để tuyên thuyết Phật lý mà tự mình đã chứng ngộ. Địa danh này được gọi là nơi “ Sơ chuyển pháp luân”.  Trong Phật Giáo gọi sự tuyên thuyết Phật pháp là “ chuyển pháp luân”. Nhóm Kiều Trần Như đã trở thành những đệ  tử đầu tiên, trong Phật giáo gọi là “ Ngũ tỳ kheo” và dựng tháp kỷ niệm họ ở vườn Dã Uyển. Suốt hơn 40 năm Phật Đà thường đi lại thuyết pháp ở dọc dải lưu vực sông Hằng và miền tây bắc Ấn độ. Ngài được các quốc vương Ma kiệt đà, Câu tát la khuyến khích, giúp đỡ rất nhiều nhờ vậy mà Phật giáo đã có sự phát triển nhanh chóng. Năm 80 tuổi, Ngài nhập diệt dưới hai cây Ba la gần thành Câu thi ca. Tương truyền, xá lợi của Ngài được chia thành 8 phần, dựng8 tháp ở các nơi để cúng dưỡng. Sách ghi chép về cuộc đời và sự tích của Phật đà được lưu vào kinh điển. Sau này được dịch ra chữ Hán có các kinh sách “ Phật bản hạnh kinh”, “ Phật sở hành tán”, “ Thụy ứng bản khởi kinh”, “ Thích ca phả”...
          Để kỷ niệm giáo Tổ Thích Ca Mâu Ni, các đệ tử Phật đã tạo ra rất nhiều tượng Phật mà cung phụng lễ bái. Tôn tượng của Phật Thích Ca có tượng ngồi, tượng đứng, tượng nằm. Tượng nằm để biểu thị Phật đà nhập Niết Bàn rời xa cõi thế. Tượng Phật Thích Ca ở thế  ngồi là thế Phật đà kiết gìa phu tọa trên đài sen, thân mặc Đại y thông vai, tay kết ấn thuyết pháp, trên đầu có nhục kháo nổi cao, tóc quăn, hai tai dủ dài xúong vai, mi mắt hẹp dài, hai mắt hé mở, khoảng mi mắt có hào quang trắng, sau lưng có hoa văn ngọn lửa bốc cao chiếu sáng tòan thân. Tượng Phật đứng là Phật Thích Ca đứng thẳng ở trên tòa sen, trên thân mặc áo Tăng kỳ chi, thân dưới mặc quần, ngoài phủ Đại y thông vai, tay phải kết ấn thí vô úy, tay trái kết ấn dữ nguyện để biểu thị tích Phật Thích Ca đi du hành thuyết pháp và tế độ cho chúng sinh.
( Theo Hình tượng Phật, bản dịch của Nguyễn Đức Thụ)

Thứ Ba, 6 tháng 8, 2013

Nhiên Đăng Cổ Phật



PHẬT NHIÊN ĐĂNG

Hình tượng Phật Nhiên Đăng



Lửa tử sinh muôn kiếp đốt thiêu
Chúng sinh khổ não đủ điều
 

Xưa nay không biết bao nhiêu đọa đày
Vô minh che lấp tháng ngày
Ơn nhờ Phật độ mới hay tâm mình,
xưa nay chẳng có diệt sinh
Sáng đèn trí tuệ vô minh chẳng còn.

(Quảng Kiến)
 
Nhiên Ðăng Phật. Vị cổ Phật từng sống cách thời đại chúng ta vô lượng kiếp. Ðức Phật Nhiên Đăng là vị Phật đầu tiên của 24 vị Phật trước đức Phật lịch sử Thích-ca Mâu-ni. Tương truyền dưới thời Nhiên Ðăng Phật thì đức Thích-ca là một nhà sư khổ hạnh tên là Thiện Huệ (s: sumedha). Với thiên nhãn thông, Nhiên Ðăng Phật nhận ra Thiện Huệ sẽ thành Phật dưới tên Cồ-đàm (gautama) và thụ kí cho Thiện Huệ. Phật Nhiên Ðăng được xem là vị Phật quan trọng trong các vị trước Thích-ca. Ngài là vị đại diện cho Phật quá khứ tương tự như trường hợp Di-lặc được xem là đại diện cho Phật vị lai.
Danh hiệu Phật theo Phạn văn là Dipamkara, dịch âm là “ Đề hòa yết la”. Cũng còn dịch tên là Đính quang Phật. Tên Nhiên đăng là dịch theo ý.
            Trong Phật giáo đây là một trong những vị cổ Phật đời quá khứ. Tương truyền rằng: lúc sinh thời, thân thể ngài tỏa rực sáng như đèn nên mới gọi tên là Nhiên đăng. Sau khi Ngài thành Phật cũng lấy tên  gọi ấy làm hiệu.
            Trong truyền thuyết Phật Giáo có kể rằng: Khi Phật Thích Ca còn sống trong đời quá khứ, tên tiền kiếp của ngài gọi là Nho đồng. Khi ấy Phật Nhiên Đăng đang làm giáo chủ tại thế. Một hôm Nho đồng gặp một người con gái tên gọi Cù gi, trong tay nàng cầm bảy bông sen xanh. Nho đồng thích lắm liền lấy 500 tiền vàng nài nỉ xin được mua lại năm bông. Cù gi thấy anh ta trả giá quá cao thì cho là kỳ quái bèn tò mò hỏi:
-       Anh mua sen xanh làm gì thế?
Nho đồng đáp:
-       Để đi cúng Phật
Nghe rồi Cù gi cũng hoan hỷ lắm liền buộc riêng hai bông rồi nhờ Nho đồng mang đi cúng Phật giúp mình. Nho đồng đến nơi Phật Nhiên Đăng cúng dâng Phạt hai bó sen xanh, lại thây đường đi lầy lội dễ làm vấy bẩn chân Phật  mới vội vàng cởi áo trên mình trải lên vũng lội nhưng vẫn chưa đủ phủ kín, Nho đồng bèn cắt tóc phủ hết chỗ lội để Phật bước đi khỏi lấm. Phật Nhiên Đăng thấy sự thành kính của Nho đồng bèn bảo:
-       Bởi ngươi đã có công đức kính Phật như vậy, nên sau này trải qua 91 kiếp tứ1 ngươi nhất định thành Phật tên hiệu là Thích Ca văn Như Lai!.
Để biểu thị cuộc đời bản sinh của Phật Đà, đã có rất nhiều tranh tượng lấy đề tài này để phản ánh hình tượng của Phật Nhiên Đăng.Theo truyền thuyết, thân Phật Nhiên Ðăng cao “80 trượng”, giáo hóa 84.000 vị A-la-hán, Ngài sống 100.000 năm. Tháp đựng xá-lị Phật Nhiên Ðăng cao 36 do-tuần (s: yojana » 15-20km).

----------------------------------------------------
(1)   Kiếp tứ: hay còn gọi là Kiếp ba. Nghĩa thực là sự hiện diện của một con sóng nước. Nghĩa bóng để ví với một kiếp người – Nghĩa là đời người cũng chỉ như con sóng nước, còn lại tan biến trong khoảnh khắc để nhường chỗ cho đợt sóng sau. Phật giáo quan niệm kiếp gồm nhiều năm tháng, có phân ra đại kiếp, trung kiếp và tiểu kiếp.
Theo hình tượng Phật của Nguyễn Đức Thụ

Đa Bảo Như Lai



PHẬT ĐA BẢO

Hình tượng Phật Thích Ca – Đa Bảo


Quá khứ, hiện tại đến vị lai
Vạn Phật nhất thể chẳng có hai
Viên mãn Báo thân thời thụ dụng
Pháp thân thanh tịnh chỉ Như Lai.

Phật là vị giáo chủ đời quá khứ của Bảo Tịnh thế giới ở về phương Đông. Nghe nói ngài đã từng phát nguyện rằng sau khi ngài nhập diệt, sẽ lấy xã lợi tòan thân đặt trong bảo tháp, nếu sau này có Phật thuyết kinh Pháp hoa thì ngài sẽ xuất hiện trước tháp ấy để chứng minh cho sự thuyết pháp của Phật về kinh ấy là chân thực.
        Theo kinh “ Diệu pháp liên hoa kinh”. Trong phẩm gạp Bảo tháp, có viết: khi Phật Thích Ca giảng thuyết kinh Pháp hoa cùng các đệ tử, bỗng nhiên từ trong lòng đất mọc lên tòa tháp tòan thân xá lợi của Phật Đa Bảo rồi hiện ra lơ lửng ở giữa không trung. Tháp đó được trang trí bằng vàng, bạc và ngọc lưu ly. Từ trong tháp đã pát ra âm thanh lớn, rất rõ ràng lời tán thán Phật: “ Thiện tai! thiện tai! Thích Ca mâu ni có thể lấy bình đẳng, đại tuệ để thuyết giáo Bồ tát. Chỗ hộ nịệm của Phật là kinh Diệu pháp liên hoa để thuyết pháp cho đại chúng. - Cứ như thế, như thế! Thích ca mâu ni thế tôn, những điều thuyết pháp ấy đều là chân thực, chân thực!”. Bởi thế Phật Thích ca đã nói rõ cho đại chúng đang nghe kinh biết rằng: Ở trong Bảo tháo ấy có chứa đựng xá lợi tòan thân Như Lai, đó là vị Phật ở đời quá khứ của Quốc Thổ Bảo Tịnh ở về phương Đông thế giới, hiệu của Ngài là Đa Bảo. Sau đó Phật Thích ca lại khẩn khỏan thỉnh chư thiên Bồ Tát xuống khai mở cửa Bảo Tháp để thị hiện tòan thân Phật Đa Bảo cho đại chúng được chiêm bái. Lúc này Phật Đa Bảo cho phép xuất bán tòa, đến trước mặt Phật Thích Ca mà nói rằng: “ Thích Ca mâu ni thế tôn! Có thể ngồi ngay đấy!. Phật Thích ca đã nhập tháp ngồi kiết già phu tọa cùng với Phật Đa Bảo tuyên thuyết Phật Pháp.
        Sau khi kinh Pháp hoa được dịch ra Hán văn, đã lưu truyền rất rộng ở Trung Quốc. Bởi vậy mới có tích chuyện về mối quan hệ giữa Phật Thích Ca và Phật Đa Bảo. Trong các tranh tượng Phật Giáo sự xuất hiện của Phật ĐA Bảo thường gắn với tích trên mà rất hiếm có pho tượng Phật Đa Bảo đơn.Tượng Ngài được tạc theo đề tài cùng Phật Thích Ca đuwocj đặt trong kháp thờ Phật. cấu thành một pho tượng Phật Thích Ca – Đa Bảo. 
(Hình tượng Phật, bản dịch Nguyễn Đức Thụ)

Chủ Nhật, 4 tháng 8, 2013

Đại Nhật Như Lai



PHT TỲ LÔ GIÁ NA

Đi Nht Như Lai – ( Đi Quang Minh Biến Chiếu )

_______________________________________________________




Quang Minh biến chiếu mãn Nam Thiên
Phúc tuệ từ ân chính pháp truyền
Đại hỷ Đại bi kim tướng hiện
Hoa khai kiến Phật nguyện tâm viên.

Phật có danh hiệu lưu lại trong một số kinh sách khác là: Tỳ lư triết na hoặc Tỳ lư xá na, âm Phạn Vairocana với ý nghĩa là Quang minh biến chiếu hoặc là Đại Nhật để ví như mặt trời chiếu rọi khắp muôn nơi – Trong các chùa viện của Trung Quốc thường rất hay gặp pho tượng Phật Đại Nhật.
          Đối với Phật Tỳ Lư Giá Na, có rất nhiều sự giải thích không giống nhau. Thiên thai tông thì cho rằng Phật Tỳ Lư Giá Na là pháp thân của Phật Đà và Phật Lư Giá Na là báo thân của Phật, Phật Thích Ca là ứng thân Phật, hợp lại sẽ là “Tam thân” của Phật Đà. – Pháp tướng Tông cũng có chủ thuyết tam thân, nhưng cách gọi tên lại khác. Tông này coi Phật Tỳ Lư Giá Na gọi là “ Tự tính thân Phật”, lấy Phật Lư Xá Na là “ Thụ dụng thân Phật”, Phật Thích ca làm “ Hóa thân Phật”. – Hoa nghiêm tông lại căn cứ kinh “ Hoa Nghiêm” mà cho rằng: Phật Tỳ Lư Xá Na cũng là Phật Lư Xá Na, hai danh hiệu chỉ là một, do cách phiên dịch có khác nhau mà thôi. Tông này cho rằng Phật Đại Nhật là Báo Thân của Phật Thích Ca, mà trong Hoa Nghiêm đã nói tới vị giáo chủ của thế giới tịnh độ Liên Hoa Tạng - Mật Tông coi Phật Tỳ Lư Giá Na gọi là “ Đại Nhật Như Lai” tôn phụng tối cao trong mật giới. Họ cho rằng Phật Đại Nhật Như Lai là sự thể hiện tập trung của Lý Tính và Tuệ Tính, mà trong Phật giáo vẫn thường nói đến Lý Trí không thể tách làm hai, vì vậy ngài là Pháp thân Phật. Trong việc tôn tượng thờ phụng của Mật tông thì thường tôn tượng Phật Tỳ Lư Giá Na làm vị Phật trung ương an vị cùng với bốn pho tượng Phật khác bao gồm:
-      Phật A Súc ở phương Đông
-      Phật Bảo Sinh ở phương Nam
-      Phật A di đà ở phương Tây
-      Phật Bất không thành tựu ở phương Bắc.
Năm tôn tượng ấy sẽ cấu thành Ngũ phương Phật và được gọi là “ Ngũ Trí Như Lai của Kim cương giới Mạn đà la”.
          Hình tượng của Phật Tỳ Lư Giá Na căn cứ theo những chủ thuyết khác nhau mà có sự khác biệt. Ví dụ: Khi ngài làm giáo chủ của Hoa Nghiêm thế giới thì căn cứ theo “Phạm Võng kinh” đã thuyết, ngài kiết già phu tọa ở trên đài sen nghìn lá, tay trái đặt trên đầu gối trái, tay phải nâng nhẹ, trên mỗi cánh hoa có một hình tượng Phật hóa ( hình bản Phật ngồi trên đài sen). Mỗi một lá sen lại tượng trưng cho một quốc thổ Phật “Tam thiên - Đại thiên thế giới” .Tổng thể của đài sen ấy đã biểu hiện vô lượng vô biên hoa tạng thế giới Phật.
          Chùa Phụng Tiên trong quần thể “ Long Môn Thạch Quật” vào đời Đường đã tạo tác pho tượng Phật Tỳ Lư Giá Na cực lớn. Pho tượng rất nổi tiếng, đến nay vẫn là pho tượng đại biểu cho quần thể tượng ở khu hang động này.
          Mật Tông đã căn cứ theo giáo nghĩa, nghi thức, phép tắc riêng để phân biệt Phật Đại Nhật thành “ Kim Cương giới Đại Nhật Như Lai và Thai tạng giới Đại Nhật Như Lai”. Cụ thể là Đại Nhật Như Lai của kim cương giới biểu thị cho trí tuệ của Phật cho nên hình tượng đỉnh đầu đội Bảo quan Ngũ trí sắc, tay kết ấn Đại trí quyền, kiết già phu tọa ở trên đài sen. Đại Nhật như lai của Thai tạng giới thì đầu đội Bảo quan sắc vàng có nhục kháo nổi cao, tay kết ấn Pháp giới định ấn, an tọa trên đài sen sắc đỏ.
Hoa tạng thế giới Phật: Mỗi một thế giới có một cho đến rất nhiều mặt trời, vô lượng vô biên thế giới gọi là đại thiên thế giới là nơi giáo hóa của một Đức Phật gọi là Phật sái, Phật Quốc độ. Vô lượng vô biên thế giới Phật kết hợp lại thành một tầng. Hai mươi tầng như vậy kết hợp lại thành một Hoa tạng thế giới. Vũ trụ có vô lượng vô biên  hoa tạng thế giới.