Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015

Chùm thơ tết

1.
CHÚC mọi hữu tình thoát khổ duyên
MỪNG chờ chư Phật luôn hiện tiền
NĂM an tháng lạc rời hư huyễn
MỚI cũ ra sao cũng chẳng phiền.












2.
CHÚC mới đến thì cũ sẽ thay
XUÂN về vui đạo gặp duyên may
GIÁP niên đón cảnh nhà tươi đẹp
NGỌ hoả trí thiền hết cái say
AN ổn thế gian cùng tiến đến
LẠC, Định, Tĩnh rồi thấy Xuân ngay.
3.
Xuân về cũng thấy giống Thu sang,
Ngoài ngõ trong nhà vẫn nắng vàng.
Xuôi ngược bôn ba theo sự-lý,
Chi bằng dừng tại chốn không-mang!.
4. 
An lạc ba ngày tết đã qua
Sáng chiều vui trẻ với vui trà
Chơi Xuân chưa đã còn lo thiếu
Rượu thịt không phạm: ngũ giới mà
Làm người Phật tử thường thanh tịnh
Chẳng vì Tết đến để quá đà
Còn bao ngày nữa tròn năm mới
Giáp Ngọ tới rồi: Ngựa phi xa!
5.
Tết người Phật tử vui muôn nơi
Tam Bảo lộc ban sự thảnh thơi
Hỷ Xả Từ Bi làm mứt kẹo
Yêu đời đẹp Đạo bó hoa tươi
Sáng câu niệm Phật chiều Thần chú
Tối lại hành trì, não phiền trôi
Xuân tới Đạo tràng chia chiếc bánh
Kim cương bốn đũa gắp ta mời.
6.
Mở cửa sáng nay vệt nắng vàng
Nghe Trầm hương thoảng rõ Xuân sang
Trong nhà ríu rít tiếng cười trẻ
Ngoài ngõ Ngựa xe đã sẵn sàng...
...Giáp Ngọ đây rồi.. 
Đời, Đạo thênh thang, 
Đạo hữu ơi!... 
Tinh tiến lên đàng... Bến giác sớm sang!
7.
Nắng vàng
hé nụ tầm Xuân
Kéo nhân gian dậy
tình Chân Đạo tràng.
Xuân về
dậy tiếng cười vang,
cho không gian vỡ
tan màng vô minh.
Xuân về
Ta lại chính mình
Mặc nguyên Xuân dậy

Mặc tình nhân gian.

Thứ Ba, 13 tháng 1, 2015

Chu dịch Thiền luận

Pháp Phật có nhiều, mỗi mỗi pháp môn đều căn cứ theo căn tính của chúng sinh mà thiết lập. Về sự tướng có khác nhưng về Chân lý chỉ có một "vị". Đó là vị giải-thoát, “giải” là làm cho thay đổi nhận thức sai lầm về thực tại của đời sống, “thoát” là rời những ràng buộc làm cho chúng ta mất sự tự do. Kinh Pháp Bảo Đàn nói “ Phật pháp bất ly thế gian giác”, nghĩa là sự giác ngộ của Phật bắt nguồn trên nhận thức của người đời (pháp-thế-gian) hay từ nhận thức thường nghiệm mà thành tựu.
Ở bài viết này chúng tôi căn cứ trên sở học của người xưa về Dịch-học mà luận giải về bản chất của vạn pháp theo góc nhìn của Thiền học. Thiền là phép quán sát sự vật hiện tượng theo thật tướng thật tính, nghĩa là bóc bỏ hết những màng duyên sinh nhằng nhịt những quan niệm sai lầm của nhận thức về thế giới của chúng ta và về tâm thức của chúng ta. Dịch-học chính là bộ môn khoa học thế gian mô tả lại môyj phần các mối quan hệ sinh và diệt của duyên-sinh của thế giới vật chất và thế giới tâm thức. Để hiểu về duyên sinh có nhiều, giới hạn ở bài nghiên cứu này chúng ta bắt đầu dùng dịch học để dự đoán tương lai của chính mình, rồi từ đó phân tích các khái niệm, truy tầm nguyên nhân. Khi đã rõ được tự-tâm của mình rồi thì mọi sự tướng dù ẩn hay hiện, dù đã sinh hay đã diệt...mỗi mỗi đều rõ ràng không còn vướng mắc. Đây cũng chính là sự thấy biết khác nhau giữa phàm phu và thánh nhân vậy.
Chúng ta sinh ra mỗi người đều có ngày tháng năm sinh riêng khác, gồm có số năm sinh, số tháng sinh, số ngày và số giờ sinh nhất định. Vì đã sinh ra vào năm tháng ngày giờ đó rồi nên không thể lại quay vào sinh lại để chọn giờ khác tháng khác được nữa. Cho nên mới nói “Số không đổi được”. Vì điều này mà nhiều người quan niệm sai lầm là Số đã an bài. Sự thật số không đổi chỉ là khái niệm số-học chứ không phải số-mệnh là diễn biến cuộc đời từ khi sinh đến khi tử của mỗi người đã được lập trình sẵn. Nếu như vậy thì chúng ta khác cái máy ở chõ nào!?.

Con người ta sinh ra vào thời điểm nào, tại địa điểm nào trong thế giới bao la rộng lớn này tất phải có nguyên nhân, người khoẻ mạnh, người ốm yếu, người giàu, kẻ nghèo khổ… chắc chắn phải có nguyên do. Đi tìm câu hỏi này đồng nghĩa với việc suy tư về cây lúa. Cây lúa mọc ở nơi khô cằn khác với cây lúa mọc ở nơi phù sa tươi tốt. Lúa cũng tốt hơn khi phát triển ở thời tiết ôn hoà mát mẻ, vào thời điểm khô hạn dù cố gắng chăm bón thì cũng chỉ ra bông bé hạt lép mà thôi. Như vậy cây lúa tuỳ theo điều kiện sinh trưởng mà có kết quả khác nhau. Từ thời điểm gieo mầm cho đến việc bón phân, cần, giống…tập hợp những yếu tố này gọi là Duyên. Duyên chính là điều kiện.

Con người ta cũng vậy, sướng khổ đều có nguyên nhân. Đơn giản như cây lúa mà còn khó suy lường huống hồ con người ta nay đây mai đó, môi trường sống sai khác, quan hệ phức tạp, tính cách thay đổi hằng ngày, chịu ảnh hưởng của khí hậu thổ nhưỡng văn hoá vùng miền...Như người miền trung thì có khi hiền hoà ( chữ Thuận là thật đức của quẻ Khôn theo Dịch học), có khi dữ tợn ( chữ Nghịch), hầu hết các cuộc khởi nghĩa cách mạng đều bắt đầu xuất phát từ miền trung. Người miền Nam theo vị trí địa lý của dịch học thuộc quẻ Ly hoả, tính cách có người rất huy hoàng tráng lệ là được cách thật đức, có kẻ tâm hồn lại trống rỗng là cách hư đức của quẻ Ly…Con người sống trong mối qua hệ nhiều tầng nhiều lớp như vậy để dự đoán một sự vật hiện tượng liên quan đến con người quả thật không phải là điều đơn giản.

Giới hạn quyển sách này chúng tôi muốn giới thiệu một góc nhìn về bản chất Dịch học dưới phương pháp Nhân Minh luận của nhà Phật.

Nói về pháp Nhân Minh của nhà Phật chính là việc thông qua kết quả (lập Tông) để xét lại mối quan hệ của Nhân và Duyên. Như việc thành tựu Đại pháp thân là do nhân tu Bồ đề tâm, hay quả Nhất thiết trí do nhân tu Bát Nhã…

Nhân tu

              Từ việc theo dõi sự phát triển trong suốt vòng đời của cây lúa qua nhiều ngàn năm con người đã rút ra được kinh nghiệm và dự đoán được kết quả phát triển, mỗi khi có sự thay đổi của một trong các yếu tố cấu thành hay nói cách khác là thay đổi duyên. Phương pháp dự đoán về con người cũng dựa trên kinh nghiệm như vậy. Do con người được cấu thành bởi nhiều thành phần phức tạp. Tổng hoà gồm phần thân và phần tâm. Để đoán biết được sự phát triển theo từng giai đoạn sinh lão bệnh tử cho đến việc thành bại của công việc trong cuộc sống theo phân tích trên thì chúng ta phải tìm hiểu được các nhân và duyên của con người. Dựa vào đó mà luận đoán được kết quả. Người nào nắm chắc được cấu trúc phát triển và các thay đổi của duyên thì sẽ dự đoán chính xác.

Đời người trăm năm, chẳng mấy ai có thể đủ thời gian để học hết kinh nghiệm của thế giới vô cùng này ấy vậy mà xưa nay có nhiều vị Tổ sư để lại các bài sấm ký dự đoán tương lai cho suốt hàng ngàn năm sau rất đúng.

Kinh Phật thuyết có rất nhiều điều mà đức Phật đã dự đoán trước về tương lai. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy, về sau này, sau khi ta nhập diệt, chúng sinh ở vào thời mạt pháp làm ra nhiều sự huyễn hư tạo ra lắm bệnh quái dị, tâm tham sân si nổi lên đánh giết nhau, đến cực vi cũng làm hại được chúng sinh.” Cực-vi mà đức Phật nói đó chính là bom nguyên tử ngày nay vậy.

Gần hơn, cách đây khoảng 1000 năm có Tổ sư Quý An để lại bài sấm ký như sau:

“ Thụ căn diểu diểu
Biểu Mộc thanh thanh
Đào hoa mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông A nhập điện
Dị Mộc tái sinh
Đoài cung ẩn tinh
Lục bát niên gian
Thiên hạ thái bình.”

Đây là bài sấm ký nói đến kết quả và thứ tự của các triều đại từ thời nhà Đinh đến nhà Tiền Lê, Nhà Trần, nhà Hậu Lê…dự đoán tới năm 2018 của nước Đại Việt.

Hay như bài sấm của Bạch Vân Cư sỹ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“ Ta tai thiên hạ nhược bềnh bồng
Nam Bắc kỷ hà nhược lộ thông
Hồ ẩn trung sơn Mao tận bạch
Kình dương hải ngoại huyết lưu hồng
Kê minh Thỏ ngọc thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất lam điền Nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thướng
Thế gian cộng hưởng thái bình phong”

Bài sấm ký của cụ Trạng Trình dự đoán về vận cục của nước Đại Việt theo hai câu cuối bài sấm của Tổ sư Quý An.

Hiện nay chúng ta đã chứng minh và trải nghiệm được các bài sấm xưa là đúng với diễn biến thực tế. Trên thế giới có nhiều nhà tiên tri cũng có khả năng dự đoán tương lai rất chính xác. Vậy câu hỏi đặt ra: tại sao họ lại có thể đoán biết được kết quả tương lai!?

Quay trở lại việc trồng lúa thì chúng ta biết được sẽ có hạt lúa chắc hay lúa tép bởi ta nắm bắt và biết được các yếu tố sẽ tác động lên quá trình phát triển của cây lúa. Cũng như vậy, đức Phật cho đến các vị Tổ sư và nhà tiên tri đã nắm bắt được các điều kiện và diễn biến của một sự vật và hiện tượng rồi từ đó rút ra được quy luật phát triển. Căn cứ vào quy luật đó mà dự đoán về người về sự vật khác nhau tương ứng.

Dự đoán một sự vật hiện tượng xuất hiện và diễn biết trong một quãng thời gian dù là về quá khứ hay tới tương lai chính là việc nắm bắt được sự tác động của nhiều yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau nhiều tầng nhiều lớp như vậy. Nhà Phật đã rút ra được quy luật bản nhiên của sự vật hiện tượng gọi là luật Nhân Quả.

Theo đó mới thấy, ai nắm được then chốt của nhân quả thì có thể thay được tương lai đổi được hiện tại.

Nhiều người rất ngạc nhiên và khó hiểu vì khi đọc ngày tháng năm sinh của mình thì có người sẽ nói ra được tổng quan cuộc đời của họ. Phép xem ngày tháng năm và giờ sinh ( tứ trụ) để dự đoán như vậy có nhiều. Cụ thể phép an sao của ngừoi Ấn độ do Ngài Thiện Vô Uý Đường Tam Tạng truyền vào Trung Quốc là sử dụng mười hai sao an liên tiến trên mười hai địa chi theo năm tháng ngày giờ từ sao Thiên Quý tại cung Tý đến Thiên Thọ tại cung Hợi rồi căn cứ vào ý nghĩa các sao tại các cung an mà luận đoán. Ngoài ra còn các pháp dự đoán khác dựa vào nền tảng âm dương sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái kết hợp thành 64 quẻ kép rồi căn cứ theo ngũ hành tương sinh tương khắc của các hào với ngũ hành của người mà đoán biết về quá khứ và tương lai. Pháp môn này dựa trên nền tảng của Chu Dịch, về cơ bản khá chính xác…

Các phép dự đoán tương lai kể trên chính là việc căn cứ vào kinh nghiệm nhiều đời của nhiều người, từ đó rút ra được các quy khác nhau như luật âm dương, ngũ hành…

Xét thế mới biết tất cả các pháp môn cho đến diễn biến của mọi sự vật hiện tượng đều tuân theo quy luật Nhân Quả đều dựa trên nguyên Nhân kết hợp với điều kiện là Duyên mà trổ Quả tương ứng.

Chúng ta đang trên đường tìm hiểu và suy ngẫm các phương pháp để dự đoán sự việc thì điều cốt yếu là phải thông tỏ được Nhân Quả.

Nói về Nhân Quả thì có nhân hiện tại sinh quả hiện tại, có nhân quá khứ sinh quả hiện tại. Nhân làm quả rồi quả lại làm nhân bồi đắp tầng tầng lớp lớp như vậy thật là thiên biến vạn hoá không khi nào ngừng nghỉ. Các sách viết về Chu Dịch trong Hệ từ nói: “Dịch chi vi thư dã, bất khả viễn, vi đạo dã lũ thiên, biến động bất cư, chu lưu lục hư, thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch; bất khả vi điển yếu, duy biến sở thích.” ( Sách dịch không thể xa lìa được; đạo Dịch luôn dời đổi, biến động chứ không ở yên một chỗ, trôi chảy bao quanh khắp cả sáu cõi, đi lên đi xuống không theo quy luật nhất định nào, cương nhu thay đổi nhau, không thể lấy nó làm chuẩn mực cố định; mà chỉ thích hợp với sự biến hoá thay đổi). Trích hệ từ này mới hay Tông chỉ của Dịch cũng chính là nói lên một phần của luật nhân quả. Sự biến đổi mà Dịch nói đến chính là sự tác động của nhân quả tương tục từ ngày đến đêm… từ thời này sang thời khác của các sự vật hiện tượng khác nhau.

Xét thêm về phong thái “ ngã tắc thị ư dĩ, vô khả vô bất khả” của cụ Khổng Tử cũng như vậy. Ý câu này nói là điều gì cũng không thể và điều gì cũng có thể. Nghĩa của không-thể là xét đến khía cạnh nắm bắt được then chốn của nhân quả, nghĩa của có-thể là nương theo nhân quả mà xét biết được sự việc vậy.

Tổ sư đời thứ sáu của Thiền Tông Trung Hoa là Lục Tổ Huệ Năng là một người không biết chữ, sau một lần gánh củi đi bán, được nghe người tụng kinh Kim Cương đến câu “ Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” (thì hoát nhiên đại ngộ. Ngài ngộ cái gì đây?. Nói về sở ngộ trong nhà Phật thì vô cùng nhưng tựu chung cũng là nắm bắt được bản chất của vạn pháp nghĩa là nắm được then chốt của nhân quả trùng trùng. Triệt ngộ là thời điểm mà hành giả tu Phật trực nhận được thực tướng của mọi sự vật hiện tượng, nắm bắt được quy luật biến hiện của tâm của vật chính là nhập một với pháp giới tính trùng trùng duyên khởi. Nghĩa là nắm bắt được các nhân và duyên tác động qua lại nhiều tầng nhiều lớp như thế nào…Kinh Phật có nói: trong một trận mưa chư Phật có thể biết được có bao nhiêu hạt mưa là ở khả năng thông tỏ được Nhân Duyên Quả.

Chúng ta trở lại phân tích các khía cạnh và vấn đề của việc dự đoán tương lai của Kinh Dịch theo kiến giải của Thiền. Thiền ở đây là sự quán chiếu soi xét đúng với sự thực.

Như trên đã nói để đoán biết được kết quả tương lai của con người chúng ta phải hiểu rõ được sự phát triển và các ảnh hưởng đến cá nhân đó. Con người có phần thân và phần tâm. Phần thân được cấu tạo bởi tứ đại là địa thuỷ hoả phong. Địa là phần vật chất như xương thịt nội tạng, thuỷ là phần máu mủ, hoả là phần hơi ấm, phong là phần khí trong người. Phần Tâm mà người đời gọi là phần hồn, nhà Phật gọi là Thần thức gồm Kiến đại và Thức đại.

Kiến đại là phần thấy biết của sáu căn với sáu trần, phần này chính là thói quen được huân tập nhiều đời kiếp, cũng là căn cứ giải thích cho khái niệm năng-khiếu khác nhau của người đời. Như có người sinh ra đã sáng tác được âm nhạc, lại có kẻ sinh ra đã có năng khiếu về hội hoạ, về thể thao, về khoa học khác nhau…

Thức đại chính là sự lưu giữ các phân biệt, hay nói đủ là Tàng thức, nơi tàng trữ các chủng tử của chư pháp. Chủng tử là hạt giống của thiện nghiệp và ác nghiệp của mỗi người. Thức-đại này làm căn bản cho các căn duyên với các trần mà hoá hiện ra thế giới tương ứng
...còn tiếp...

Thứ Hai, 5 tháng 1, 2015

Thư gửi anh Trai

Gửi Anh trai:
...Anh là người có tâm hướng Đại thừa, về mặt thế gian lại có một số điểm mạnh hỗ trợ điểm yếu của em, với khả năng và kinh nghiệm 10 năm doanh nghiệp, em sẽ cùng anh xây dựng sự nghiệp bền vững, cũng là để thực nghiệm pháp thế gian và có thời gian tu tập là tự lợi và thực hành hạnh Bồ Tát đạo làm các việc lợi tha giúp người. Đức Phật có nói tăng đoàn phải từ hai người trở lên, cùng tu và hỗ trợ nhau trong sinh hoạt cuộc sống mới có thể sớm thành tựu đạo nghiệp. Ví dụ rõ ràng ở tình huynh đệ giữa ngài Xá lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên, xa hơn nữa là Phật A di đà và Phật Dược Sư, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc…

Em biết khả năng "tạo sóng" rất lớn của anh. Em nói sóng là nói theo cảnh giới của kinh Lăng Nghiêm, “mọi sự đều do sóng tâm tạo thành”. Anh có cách để làm cho người khác liên kêt tụ hội, cũng như sóng giúp cho đất bồi, nhưng sóng đôi khi cũng phá vỡ những thứ kém bền vững. Cùng tạo dựng sự nghiệp với anh, em sẽ làm tốt yếu tố nhu nhuần tạo xúc tác làm cho sự liên kết yếu đó được bền vững trong giai đoạn khó khăn ban đầu. Song song với nhiệm vụ đó em có thêm sự hỗ trợ của anh để có không gian và thời gian tu học.

Như anh nói, chúng ta chưa có Thầy trực tiếp chỉ dạy nên phải học qua sách vở. Em đọc trước hay anh đọc đều có lợi ích cho nhau. Bởi con đường của ta chính là chuỗi đời sống vô tận, đời này chỉ là một bước ngắn mà thôi. Song song với công việc anh em ta cùng trao đổi giáo lý và đem ra ứng dụng để lợi mình lợi người. Anh vẫn hay thích khái niệm thần thông, em cũng vậy, nhưng có câu "thần-thông không bằng thần-diệu" nghĩa là cuộc sống dù gian nan đến đâu, mặc dù phải tìm mọi cách để tồn tại phát triển nhưng ta cố gắng không để cho bất cứ ai phải phiền lòng về đạo đức lối sống của mình, được như vậy mới là tuyệt-diệu, còn khi giàu có về tiền của và có thế lực thì không nói làm gì. Tổ Lâm Tế có nói kệ: …kẻ thần thông không bằng người tầm thường mà VÔ-Sự… vì những điều này nên từ giờ anh em ta cũng hết sức cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, mười mình chỉ nên nói một để có được cách “ thâm tàng bất lộ”, mình nói ra để lấy lòng người nhưng có khi họ chưa hiểu lại đánh giá mình là “nổ” quá thì lợi bất cập hại. Việc tỏ ra lợi hại hơn người cũng chưa hẳn tốt, họ sẽ kỳ vọng nhiều dẫn đến thất vọng lớn. Có người đưa ra câu chuyện lãnh đạo của Đường Tăng với Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới, Sa Tăng: xét về tài phép thì Tôn Ngộ Không vượt trội nhưng vẫn phải theo hầu Đường Tăng, các đệ tử khác cũng là tài phép hơn hẳn. Vấn đề đặt ra với người lãnh đạo cũng vậy. Quan trọng là tập hợp được người tài giỏi hơn mình. Để tụ hội và sử dụng hết năng lực của họ. Cốt yếu của sự quy tụ những người tài giỏi hơn thì chúng ta phải có cái tâm bao dung, trong công việc và cuộc sống chúng ta hằng giữ lễ với người. Lưu Bị ba lần cầu Khổng Minh, mặc dù là phận chủ tới nhưng lại thờ Khổng Minh như thầy, cũng là công nghệ lãnh đạo giống nhau đó mà Đường Tăng vượt qua chướng ngại thành tựu đạo quả, Lưu Bị lập nên đế nghiệp…Công nghệ lãnh đạo của Đường Tăng chính là niềm tin bất thối chuyển về con đường giải thoát tối  hậu. Thần thông vẫy vùng loăng quăng của Tôn Ngộ Không chính là tài trí thế gian cũng không qua được bàn tay của Phật Tổ, hay nói đúng ra là huyễn hư không thể nào vượt qua sự thật. Đó thể hiện bản chất của Pháp thế gian và pháp Xuất thế gian. Nghĩa là thế gian pháp chỉ là để hỗ trợ cho xuất thế gian.

Dù là thế gian hay xuất thế gian, xưa chư Tổ vẫn thường dạy bảo, với người Phật tử là " DUY TUỆ THỊ NGHIỆP", có nghĩa sự nghiệp chính của người Phật tử là phát triển Tuệ-Giác. Khái niệm tương tự là khái niệm Đa-văn. Đa văn khác với Tuệ-giác. Đa văn là học hỏi và hiểu biết nhiều điều, nhiều chuyện. Tuệ giác là nhận thức được thực tại. Người có tuệ giác chắc chắn sẽ đa văn nhưng kẻ đa văn chưa chắc đã có tuệ giác. Kinh Phật dạy nếu người có tuệ giác thì sống trong chông gai lửa đạn cũng an lạc như trong chăn ấm gối êm vậy. Bởi có tuệ giác thì nhận rõ được và sống với thực tại chân thật chứ không phải vọng danh vọng vật, vọng sắc vọng tài. Cái vị giác ngộ này có được do từ lối sống với tâm Vô-ngại, pháp môn giải thoát đó có tên gọi Bất ngại Tính Không Bát Nhã.

Kinh 42 chương có đoạn: cúng dường cho 1000 người ác không bằng cúng cho một người thiện…cúng cho 1 vạn người thiện không bằng cúng cho một người tu đạo…cúng dường cho Tam thế Phật không bằng cúng cho một vị Vô trí, Vô tu, Vô chứng, Vô đắc.” Khái niệm Vô-Trí rất quan trọng trong học Phật. Chúng sinh vô minh nhiều nên có lắm nỗi khổ niềm đau, tu đạo là để nhận thức đúng với thực tại mà xoay chuyển mê lầm, gọi là việc xoá vô minh. Như vậy cái trí lớn có đó chẳng qua chỉ để diệt trừ vô minh nhiều mà thôi. Kinh Bát Nhã có dạy: “bởi còn vô minh nên phải tạm thời dùng trí, vô minh hết thì trí cũng chẳng cần”. Nghĩa là hết vô minh thì đắc Vô trí, vậy cho nên người có trí thế gian nhiều thì chẳng qua là vô minh lắm. Xưa nay vì tham danh để được người tung hô, muốn đứng lên đầu kẻ khác để được phục dịch mà người ta tìm mọi cách để luồn lách hại người…đỡ hơn tí là học mánh khoé, kỹ nghệ để thăng tiến. Nên thương cho những kiểu người như vậy vì họ chưa đủ nhân duyên để tu Pháp niệm Phật, không thấy được sự an lạc đích thực của chuỗi đời sống vô tận. Mãi rong ruổi với tâm phân biệt, cho là người khác phải phục tùng mình mà quên đi vạn pháp vốn bình đẳng vốn đồng thể tính.

Em thường xuyên quán niệm như vậy nên càng ngày em càng ít nói, chỉ tuỳ duyên mà dãi bày, lại cũng không cho mình hơn ai điều gì, như thế em thấy ít rắc rối hơn và cũng là có nhiều thời gian hơn cho sự nghiệp “duy-tuệ” của mình. Lại không cho là mình có trí hơn người, bởi theo lập luận trên thì chẳng khác gì mình khoe cái vô minh nhiều. Hôm ở Cambodia anh mới nói với em là giờ anh không thích uống rượu nữa, đó cũng là bởi tu vị của anh đã tăng tiến. Nghĩa là ở cảnh giới khác, địa khác thì tư tưởng thanh cao hơn, nhu cầu ham muốn sẽ khác hẳn.

Đức Phật dạy rất rõ ràng, có ba tiệm thứ tu đạo Bồ Tát, tiệm thứ đầu tiên mặc dù chưa ăn trường chay nhưng tuyệt nhiên phải bỏ bốn thứ rau cay. Nếu không như Kinh Thủ Lăng Nghiêm Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa đã dạy: dù có thông 12 bộ kinh thì cũng chỉ như lấy cát nấu cơm, mãi mãi không thể thành tựu được. Tiệm thứ tu hành thứ hai là tu pháp Vô-Ngã, vô ngã là rời Ngã sở. Có bốn tướng bệnh của Ngã gồm: Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sinh tướng, Thọ giả tướng.

1-   Ngã tướng là chấp cái tôi được khen, chê, yêu, ghét
              2-   Nhân tướng là chấp thân mình, vật từ mình hơn người
              3-   Chúng sinh tướng là chấp cái thân người khác thua kém mình, vật của người khác không quý bằng vật mình
             4-   Thọ giả tướng là chấp cái ta biết hơn hẳn và khác với cái biết của người.

Tiệm thứ tu hành thứ ba là tu Pháp Bất Nhị, điển hình hành đạo theo pháp môn Bất nhị là Ngài Duy Ma Cật. Con đường tu Bồ tát đạo này chính là con đường từ phát Bồ đề Tâm, tu Bồ tát đạo, hành Bồ tát hành và thành Bồ để quả. Trong Luận Đại Trí Độ, Bồ tát Long Thọ đã nêu ra 5 giai đoạn tu chứng của Bồ Tát đạo cho 53 quả vị Bồ tát từ quả vị sơ phát tâm đến quả vị Diệu Giác Bồ tát thứ 52 và Quả vị Viên Giác Bồ tát thứ 53 là thị hiện thành Phật. Năm giai đoạn tu chứng Bồ tát đạo như sau:

1.   Giai đoạn phát Bồ đề tâm: là giai đoạn người học đạo nguyện vì chúng sinh mà thành tựu. Kinh Duy Ma Cật thuyết rằng: “sự nghiệp của Bồ tát chính là thành tựu chúng sinh”. Bồ đề tâm nguyện là phát tâm tha thiết cầu thành Phật đạo có đủ thập Ba la mật để hoá độ chúng sinh. Cái bản tâm không có thối chuyển đó chính là Bồ đề tâm. Bồ đề tâm ở giai đoạn này mới là hình ảnh ước nguyện chứ chưa phải là Tâm Bồ Đề chân thật.

2.   Giai đoạn Phục tâm Bồ đề: giai đoạn này tu pháp, niệm Phật hàng phục phiền não và khởi động tu theo Lục độ Ba la Mật.

3.   Giai đoạn Minh Tâm Bồ đề: là giai đoạn phân tích sâu về Tổng tướng và Biệt tướng của vạn pháp, hành Lục độ Ba la Mật và nhận rõ được tính thanh tịnh của vạn pháp.

4.   Giai đoạn Xuất đáo Bồ đề: Thành tựu Lục độ ba la mật

5.   Giai đoạn nhập Vô thượng Bồ đề: Đắc nhất thiết chủng trí.

Như vậy, con đường tu Bồ Tát đạo là con đường dài vô tận để hoá độ chúng sinh và nhất thiết vì lợi ích chúng sinh. Rời tâm phân biệt mà tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, đó là chặng đường không mệt mỏi hành Tứ-vô-lượng-tâm. Từ, bi, hỷ, xả là tứ vô lượng Tâm, đây là bốn cánh cửa để vào Bồ đề quả. Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, Hỷ là vui mừng, Xả là rời phân biệt.

         Pháp tu Bồ tát đạo có nhiều song để viên mãn Bồ đề quả lại chính là tu hành theo thập hạnh Phổ Hiền, Bồ đề quả là công đức thù thắng của chư Phật. Bồ tát Phổ Hiền trong phẩm Phổ hiền hạnh nguyện sau khi khen ngợi công đức thù thắng của đức Như Lai, bèn nói với chư vị Bồ-tát và Thiện Tài đồng tử rằng: Này thiện nam tử, Công đức của đức Như Lai, giả sử tất cả các đức Phật ở mười phương, trải qua số kiếp nhiều như vi trần, ở các cõi Phật nhiều không thể nói hết, diễn nói không ngừng về công đức ấy, cũng không thể nào nói hết được. Nếu muốn thành tựu được công đức ấy, cần phải tu tập mười hạnh nguyện rộng lớn. Mười hạnh nguyện ấy là gì?:

1-   Nhất giả lễ kính chư Phật

2-   Nhị giả xưng tán Như Lai

3-   Tam giả Quảng tu cúng dường

4-   Tứ giả Sám hối nghiệp chướng

5-   Ngũ giả tuỳ hỷ công đức

6-   Lục giả thỉnh chuyển pháp luân

7-   Thất giả thỉnh Phật trụ thế

8-   Bát giả thường tuỳ học Phật

9-   Cửu giả hoằng thuận chúng sinh

10-        Thập giả phổ giai hồi hướng

Trong các pho kinh Đại Thừa Phật thuyết, căn cốt vẫn là hành theo Thập nguyện vương này của Bồ tát Phổ Hiền. Con đường nhận thức đúng và hành động đúng về Bồ Tát đạo anh em ta còn phải đàm luận và sam học nhiều để sớm có được tâm vô ngại mà hành thiện nghiệp, dầ dnần thành tựu vô lượng công đức thiện vô lậu, làm tư lương cho các đời sống kế tiếp trong chuỗi đời sống tiến đến quả vị toàn giác...

Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2014

Thiền độ Vô cực


QUẢ THIỀN
-----------------
Ngồi ngồi ngồi,
cho lồi cái phiền não
Xào xáo xào,
cho thạo mọi cảnh-tiền.
Thiền thiền thiền,
cho tâm điên nó hết!
Phân biệt hết hết,
Cho chết cái tử sinh.
( Bài thơ QK viết tặng Thầy Kiến Nguyệt,Thiền viện trúc lâm Tây thiên ).




Bàn về thiền có nhiều, xưa nay có sự nhầm lẫn giữa quả thiền đạo Phật và quả thiền ngoại đạo, nhân ngày cuối tuần thưởng trà tản mạn bên dòng sông MêKoong, chúng tôi mạn đàm về Thiền học, mục đích bước-đầu tìm hiểu để những bước-sau được rõ ràng, tránh tạo ra cái nhân sai lầm rồi gánh phải cái quả báo trầm trọng.

Ngồi ngồi ngồi,
cho lồi cái phiền não…
(Ý nói, thiền toạ giúp cho cái thân được an ổn, làm duyên cho việc nhận diện các tâm hành).
Chúng tôi lâu nay về thiền cũng có thực tập, nói về lý thiền thì đi đứng nằm ngồi gì gì cũng thiền được, như đi có thiền hành, ngồi có thiền toạ, nằm thì có ngoạ thiền…, nghe đâu ở pháp môn Làng Mai bên Pháp còn phát triển thiền tắm, thiền đàn, thiền hát nữa…Về thực tập thiền có nhiều phương pháp, cốt yếu dựa trên tư duy chính-niệm, căn bản này giúp hành giả gột bỏ vọng niệm điều tâm đến cảnh giới vô-niệm gọi là nhất-tâm. Người tu đạo Phật, nói đến nhất-tâm là nói đến cảnh giới cao tột và cũng là mục đích hướng tới của các pháp môn khác nhau, dù là thiền tông, mật tông, tịnh độ tông hay duy thức tông...
Trong thiên kinh vạn quyển truyền lại, có môn khi dùng tướng để nhập tính như Duy thức tông thuộc về pháp-tướng hay chỉ thẳng về tính như kinh Bát Nhã thuộc về pháp-tính,… dù phương pháp chỉ bày có khác nhau nhưng tựu chung cũng để dẫn hành giả về nơi Bảo-sở, thấy được Bản lai diện mục hay cũng là lúc đạt được Thiền-độ-vô-cực. Khái niệm thiền-độ-vô-cực này chúng tôi nêu ra theo cảnh giới thiền chứng của ngài Khương Tăng Hội, vị Tổ sư Thiền của nước Việt.
Thiền-độ-vô-cực là trạng thái nhất-chân-như-tâm. Kinh Đại Định Thủ Lăng Nghiêm tu chứng mật nhân liễu nghĩa, Phật thuyết về giáo lý viên thông từ Tiểu thừa đến Đại thừa, xuyên suốt bộ kinh chỉ bày cho chúng sinh tỏ rõ được bản tâm vốn thanh tịnh, vốn thường nhất-tâm. Cốt yếu của kinh Thủ Lăng Nghiêm nằm ở đề mục của thần chú Thủ Lăng Nghiêm, mật ý ở câu: Maha, tát đát đa, bát lát ra. Trong đó Ma-ha là Nhất-chân-như-tâm nghĩa là kiên-cố, Tát-đát-đa là tự tính thanh tịnh tâm ( viên mãn), Bát-đát-ra là diệu dụng từ bi phổ độ chúng sinh ( cứu kính ). Về tu hành để đạt được định kiên cố Maha theo như kinh điển truyền lại là cả một chặng đường miên mật tu hành, quãng đường đó có khi dài tới ba A-tăng-kỳ-kiếp (theo Phật học danh số thì một kiếp là chuỗi số tự nhiên bắt đầu là số 1 và có 400 con số không) cũng có nghĩa là một kiếp sô vô lương, người tu Phật thì không mong chờ cái quả, bởi mong cầu dễ thành ra vọng tâm. Một con đường dù có xa xôi thế nào thì chăm chỉ tiến lên một ngày ắt sẽ tới:
Mọi sự đều phải tự ta
Cơm ăn áo mặc cũng thế mà
Đường xa vạn dặm đi là tới
Muôn nẻo luân hồi: bước chân ra!
Có người nói tu Thiền khó mà không khó, thiền khó ở chỗ làm sao để nhất tâm, cái tâm của chúng ta nghĩ lâu nay là cái tâm phân biệt, tâm ưa tâm ghét từ nguồn cấp vô tận ở mắt, ở tai, ở mũi, ở lưỡi, ở thân, ở ý, khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần sẽ tạo ra các tâm thức sai biệt theo các hoàn cảnh khác nhau, những tâm niệm lăng xăng này liên tục sinh diệt không gián đoạn, cụ thể trong một sát na có tới 960 niệm sinh khởi,… Pháp tướng tông có 100 tâm pháp khác nhau, để đưa bách tâm vạn thức này trở về một-tâm ( nhất tâm) quả là rất khó, khó bởi sự đời của chúng sinh đôi khi chỉ yêu cái tiếng nói nhưng ghét cái dáng hình, rồi lúc khác lại ưa cái mềm mại bóng bẩy mà chối từ cái thô cứng kệch cỡm…Tuy vậy, việc đại sự này dù là khó nhưng chư Phật, chư Tổ đã làm được và chỉ bày lại cho chúng ta tới 84 ngàn phương pháp để đưa về nhất-chân-như-tâm, vì có đường đi rõ ràng của Phật mà nhất-tâm xem ra cũng không còn khó nữa, thông thường có sự gì việc gì chỉ cần ta kiên trì cố gắng đều thực hiện được, dù là to lớn như tát sông tát bể đến tinh vi như vẽ cỏ tạo kim.., đó là ý nghĩa như đã đi đúng đường rồi thì dù có xa thế nào đi mãi cũng sẽ tới, vấn đề ở chỗ chúng ta có quyết tâm đi hay không.
“Xào xáo xào,
cho thạo mọi cảnh-tiền.”
"Thiền không khó, khó ở nhất-tâm, nhất-tâm cũng không khó, khó ở quyết tâm."

Quyết tâm thì ai cũng sẵn, chúng ta có quyết tâm Thiền tập nghĩa là chúng ta có quyết tâm tu hành để được cái an vui mãi mãi, cần lắm hạnh phúc chân thật đó bởi chúng ta khổ đau đã nhiều rồi. Khi đã có kinh nghiệm về Khổ đau, chúng ta dựa vào "tri-khổ" mà quán xét các nguyên nhân dẫn đến những cái đau ở thân, những cái khổ ở tâm, nghĩa là mổ xẻ kinh nghiệm đã tạo ra các nỗi khổ niềm đau đó, việc chúng ta nghiệm lại các hành động gây ra từ thân-khẩu-ý để tỏ rõ được nguyên nhân phiền não từ tham-sân-si, như vậy có thể nói vui: “kinh nghiệm là nghiệm lại mà thấy kinh”.! Việc soi xét nhân quả giúp chúng ta tiến tới đoạn trừ các nguyên nhân gây khổ gọi là đoạn-tập. Tiến trình loại bỏ kết-sử này, là loại bỏ các kết-tập trong tâm gồm các thói quen mê lầm như tà kiến, giới cấm thủ kiến, những kết sử này sẽ sai-sử chúng ta tạo nghiệp thông qua thân-khẩu-ý. Phương pháp giải quyết vấn đề cụ thể ở đây nhà thiền gọi là" thắp sáng hiện hữu", nghĩa là chính niệm trong các hoạt động của thân của khẩu của ý.
Bàn về chính niệm có hai, gồm ức-niệm và quán-niệm. Ức niệm là mỗi hành động chúng ta thường nhớ tới tứ ân, biết ơn chư Phật đã chỉ bày cho chúng ta con đường thoát khổ, biết ơn cha mẹ đã sinh thành dưỡng dục, biết ơn bè bạn hỗ trợ trong công ăn việc làm, biết ơn xã hội đã cho ta môi trường thuận lợi... Ức niệm giúp cho mỗi mỗi hành động của thân của tâm hướng tới việc đưa lại lợi ích cho mình cho người ngăn không cho các vọng tâm tà niệm phát khởi. Quán niệm là quán sát các pháp vốn hư huyễn không có thật thể, quán như vậy để loại trừ tâm chấp đắm có nhân-ngã và pháp-ngã, quán niệm để thấy thế gian là huyễn ảo là giả là không thật nhưng chúng ta vẫn theo hạnh của Bồ Tát, phát tâm làm các việc công đức để giúp chúng sinh từ bỏ vọng niệm trở về với bản tính chân thật. Có ức niệm và quán niệm nghĩa là có được “tam luân không tịch” tức là chúng ta hành đạo mà không thấy có người hành đạo, không thấy có pháp phải hành và không thấy có người phải cứu độ, đây chính là ý của câu: "...độ nhất-thiết khổ ách..." trong kinh Bát Nhã. Chữ nhất-thiết nghĩa là không có số mục, vì không số mục nên là vô lượng vô biên, cũng là khái niệm toàn thể toàn dụng của pháp giới, đồng với công đức viên mãn của chư Đại Bồ Tát đã đắc quả vị Phật.
…Thiền thiền thiền,
cho tâm điên nó hết!...
Nói tổng quát theo kiểu quan sát viên về thiền học; câu khẩu lệnh về thiền của ngài Bồ Đề Đạt Ma như sau: “Giáo ngoại biệt truyền, bất lập văn tự, trực chỉ nhân tâm, kiến tính thành Phật”, tức là pháp môn truyền lại không hệ thuộc vào giáo nghĩa, không căn cứ vào văn tự, đi thẳng vào lòng người, thấy được bản tính là thành Phật.
Hay quá!,
chúng ta chỉ cần thấy được bản tính là thành Phật, vậy bản tính là thế nào?, Quảng Kiến tôi cách đây ba năm, hồi mới Quy Y, rất bồng bột, đã ôm ấp và tìm kiếm hai chữ bản-Tính này, loay hoay ở Việt Nam rồi sang Trung Quốc, tới Nhật Bản rồi qua Ấn Độ (đi du lịch thôi! )… nói chung hầu như lúc nào cũng muốn nhặt ngay được ở đâu đó cái bản-Tính của Tổ Đạt Ma, mưu: cũng là để nhanh chóng được thành tựu. Nhân duyên Tam Bảo gia hộ thế nào mà chuyến hành hương chiêm bái tứ động tâm ở Ấn Độ tôi mơ hồ nhajnaj được Bản-Tính.
Đây rồi!
Bạn biết tôi tìm thấy như thế nào không?
Xin dài dòng kể lể như sau:
Nhân tránh cơn mưa, tôi vào sâu trong một ngôi tháp tưởng niệm tại bồ đề đạo tràng, nơi tuần thứ hai sau khi giác ngộ đức Phật đã ngồi thiền trong bảy ngày, ngài gướng về cội Bồ Đề đã che chở mình trong suốt 49 ngày đêm thiền định để tỏ lòng tri ân. Chiều hôm đó mưa rào kéo dài, tránh mưa đã lâu tôi lấy máy iphone3, bật roaming vào internet. Rồi, cái gì tới nó cũng tới, thật là may mắn, tôi đã tìm thấy được Bản-Tính!!!
Vâng!, nói đúng ra tôi đã tìm thấy câu định nghĩa về Tâm và Tính trong Google. Định nghĩa này khá hay!, xin được chép lại như sau:
Tâm là bể của vạn pháp, do từ một thật tế mà sinh ra. Tính là gốc của vạn hạnh, do từ một tâm mà hiện dùng. Diệu minh đầy đủ, tuệ giải tròn thông. đầy muôn trọn pháp duy một Lý, xuyên suốt muôn thuở chỉ một Tâm. Buông ra thì lấy ít làm nhiều, thu vào thì lấy nhiều làm ít. Buông ra lớn không gì ngoài, thu vào nhỏ không gì trong.”
Như vậy đủ để chứng minh Bản-Tính có thể tìm thấy ở bất cứ nơi đâu, không phải là về tận quê hương của Phật lịch Sử mới thấy. ( bởi internet hiện đâu cũng có).
Chúng ta sẽ cắt nghĩa theo cái hiểu của mình về Tâm ở phần sau, bây giờ chúng ta nói về cái Tính đã được tìm ra ( từgoogle ):
 “…Tính là gốc của vạn-hạnh…”.
Theo đó Để tỏ rõ được bản tính phải dò tìm ở cái hạnh, từ Hạnh chúng ta mới tìm ra Tính-gốc. Nói về hạnh của Bồ Tát tiêu biểu ở thập hạnh của ngài Phổ Hiền. Cụ thể:
1. Lễ kính chư Phật,
2. Xưng tán Như Lai,
3. Quảng tu cúng dường,
4. Sám hối nghiệp chướng,
5. Tùy hỷ công đức,
6. Thỉnh chuyển pháp luân,
7. Thỉnh Phật trụ thế,
8. Thường tùy Phật học,
9. Hằng thuận chúng sinh,
10. Phổ giai hồi hướng.
Người tu Đạo Phật thường hành theo mười đại hạnh của Bồ tát Phổ Hiền sẽ dần dần thể nhập với bản Tính thường trụ như Phật. Vào thế kỷ thứ III ở nước Việt, thiền sư Khương Tăng Hội trong lời tựa cho bản kinh An Ban Thủ Ý nói rằng: “cũng như khi đã ở trên đỉnh núi cao rồi thì không có dòng nước nào có thể làm cho mình ngập lụt, cũng không sợ mưa lũ làm cho mình bị chìm đắm, từ đó tuỳ duyên mà lưu xuất dòng chảy thiện lành giúp cho vạn vật tốt tươi”. Dòng nước lưu xuất này chính là nguồn hạnh từ bản Tính thanh tịnh hiện dùng. Tính-thanh-tịnh này kinh điển có nhiều tên khác như: tính Vô vi, tính Nhất như, tính Chân Như, tính Chân không, tính Phật...Thật tính của vạn vật là tính trùng trùng duyên khởi cũng là tính bất sinh bất diệt. Vạn pháp chỉ có một tính chân thật đó, ngoài tính Chân đó không còn tính nào khác nên gọi là tính Chân-Không, vạn pháp cũng từ một tính-chân như-nhau đó nên gọi là tính Chân-Như, cũng từ Tính đó mà vạn hạnh hiện có, vạn hữu hiện hình, lại gọi chung là Diệu-Hữu. Chân-Không-Diệu-Hữu là bản thể đầy đủ gồm cả Tướng-Tính-Dụng của pháp giới. Tướng và Tính là Thể, thể là Tâm, theo thật-tế phát ra diệu dụng, cho nên mới nói " Tâm là bể của vạn pháp, do từ một thật-tế mà sinh ra. Tính là gốc của vạn hạnh do từ một tâm mà hiện dùng..."
Trên đây đã nói dài dòng về Tâm về Tính, chê trách sự nói nhiều bởi vì Đạo Phật không ở chỗ biết, chỗ hiểu theo danh tự mà cốt yếu ở chỗ tu chứng, đó là ý của câu nói " ...bất lập văn tự, ngoại giáo biệt truyền...". Vậy tu thế nào để chứng? Phương pháp tu thiền có nhiều, tựu chung ở Chỉ và Quán, dụ như Kinh Viên Giác Phật thuyết có 25 pháp thiền quán về Không-Giả-Trung, thiền tông Trung Hoa có thiền công án, thiền câu thoại đầu...
 “…Thiền thiền thiền
cho Tâm-điên nó hết
Phân-biệt hết hết
Cho hết cái tử sinh”
 ( Bốn câu thơ này ý nói, các pháp thiền tựu chung cũng để loại trừ đi các vọng-tâm tà-niệm là những tâm-điên làm cho chúng ta mê mờ không thấy được bản Tính chân thật. Tu Thiền cốt đạt được Vô tâm, là cái tâm rời năng sở đối đãi)
Để nghiên cứu về thiền Đạo Phật chúng ta cũng nên tìm hiểu về tứ thiền ngoại đạo và tứ Thiền Đạo Phật.
Về tứ thiền ngoại đạo gồm: Không vô biên xứ, Thức vô biên xứ, Vô sở hữu xứ, Phi tưởng phi phi tưởng xứ.
1. Không vô biên xứ: là tâm của hành giả đồng nhất với không gian vô biên. Trong không gian vô biên ấy mọi hiện tượng vật chất và mọi hình sắc đều tan biến và không gian trở nên nền tảng của vũ trụ vạn hữu.
2. Thức vô biên xứ: Cái hư không vô biên ở định Không vô biên xứ không còn là đối tượng của tâm thức nữa mà chính là tâm thức của hành giả.
3. Vô sở hữu xứ: là cảnh giới mà hành giả nhận thấy mọi hiện tượng trong vũ trụ đều do tâm thức tạo nên. Tri giác của hành giả như là vị hoạ sĩ vẽ ra hết mọi hình tượng. Hành giả ở trong định Vô sở hữu xứ thấy được rằng không có một hiện tượng nào thật sự hiện hữu như tri giác của ta tưởng tượng.
4. Phi tưởng phi phi tưởng xứ: cảnh giới của định vô sở hữu xứ, cái không không còn là không gian, cái không cũng không còn làm tâm thức nói chung, mà chỉ còn là tri giác. Tri giác tức là tưởng, mà còn tưởng tức là còn đối tượng của tưởng, còn tri giác là còn đối tượng của tri giác. Định phi tưởng phi phi tưởng xứ là vượt thoát tri giác, tức là đạt tới trạng thái tâm lý trong đó hai khái niệm về hữu tri và vô tri đều được loại trừ.
Giới hạn của định Phi tưởng phi phi tưởng xứ là chỗ an trú, đến khi xả định thì cái nhận thức phi tưởng vẫn không thay đổi cái tình trạng của thực tại sinh tử, nó không phải là chìa khoá mở cửa thực tại bởi bốn định này luôn luôn tìm cách tách rời khỏi thế giới của thọ và tưởng, nghĩa là của cảm giác và tri giác. Việc chối từ sự an lạc do thiền định đưa tới làm cản trở con đường đi đến giác ngộ là cánh cửa giới hạn của tứ thiền ngoại đạo.

Tứ thiền Đạo Phật
1. Sơ thiền: còn gọi là Ly-sinh-hỷ-lạc-địa nghĩa là hỷ lạc có được do ly dục. Sự thực tập Sơ thiền là để trừ khử đối tượng tham ái và những lệch lạc do năm thứ say đắm gây ra như khi mắt thấy sắc thì tâm sinh dâm cuống, khi tai nghe tiếng, mũi ngửi mùi, lưỡi nếm vị và thân xúc chạm những thứ êm dịu thì sinh tâm tham đắm. Những ai có chí hành đạo thì phải xa lánh ngũ dục lục trần. Ngoài ra còn phải diệt trừ năm loại ngăn che: tham đắm, giận hờn, mê ngủ, lăng xăng, hối hận và nghi ngờ. Các vấn đề về đạo về Phật về kinh đã được thông tỏ… tâm, ý và thức được gạn lọc bởi chính niệm trở nên thanh tịnh không cấu nhiễm; tâm sáng thấy được chân lý, đạt tới trình độ không gì là không biết. Lúc này trời rồng và yêu ma quỷ quái không còn mê hoặc được hành giả nữa. Đạt được sơ thiền thoát được mười loại oán thù. Bởi xa lìa được dục tình nên cảm thấy bên trong được thanh tịnh và tâm ý yên ổn.
2. Nhị thiền: còn gọi là Định-sinh-hỷ-lạc-địa trong định sơ thiền thì thiện và ác còn đối lập nhau, hành giả lấy thiện để diệt ác, ác lui thì thiện tiến tới; ở nhị thiền thì tâm vui mừng (hỷ lạc) ngưng lắng lại, hành giả không còn lấy thiện diệt ác nữa, và vì vậy hai yếu tố vui mừng và thiện đều tự không còn. Mười điều ác đã tự tiêu tán và chấm dứt, không còn ddiefu kiện nào cho vọng thức từ bên ngoài xâm nhập vào tâm hành giả được nữa. Suối nguồn từ bi lưu nhuận ra từ nội tâm của chính hành giả và những ác pháp cũng không thể đi vào từ mắt tai mũi lưỡi thân ý. Chế ngự được tâm như thế bắt đầu hướng đến quả tam thiền.
3. Tam thiền: Hành giả ở định tam thiền duy trì chính niệm của tâm ý một cách kiên cố, cả hai ý niệm thiện ác cũng không lung lạc được tâm mình; tâm an ổn như núi Tu Di, các điều thiện cũng không phải xuất phát từ bên ngoài; vì lý do là cả thiện và ác cũng không thể xâm nhập được. Tâm như cành rễ hoa sen dưới đáy hồ, nụ hoa còn ngâm mình trong nước. Thiền thứ ba, sự thanh tịnh cũng giống như hoa sen, các yếu tố tiêu cực được trừ khử đi, thân và ý đều an ổn.
4. Tứ quả thiền: Ý niệm về thiện và ác đều đã hoàn toàn khử bỏ, tâm không nhớ thiện cũng không giữ ác, nội tâm sáng trong như ngọc lưu ly. Khi vị Bồ tát do tâm ý đoan chính đạt được thiền thứ tư thì bè lũ tà ma cấu uế không còn có cách gì che lấp được tâm ý của mình nữa. Như nhà hoạ sĩ, có thể tự do sử dụng màu sắc mà mình ưa thích, như người thợ kim hoàn tuỳ theo ý muốn mà chế tạo ra hàng trăm hàng ngàn thức trang sức xảo diệu, vị bồ tát làm cho tâm thanh tịnh, đạt tới định thứ tư thì có thể làm được bất cứ cái gì mình muốn, như bay bỗng lên, phi hành trên không, đi dưới nước, phân tán thân thể, ra vào không ngăn cách, sinh tử tự do, sờ mó được cả mặt trời mặt trăng, làm rung động cả trời đất, thấy suốt nghe xa, không gì là không nghe thấy. Tâm đã định, quán đã minh dần đạt được nhất thiết trí, thấu được cả tình trạng khi chưa có trời đất và chúng sinh, biết được cả tâm ý hiện tại của chúng sinh trong mười phương, nói tóm lại không gì là không hay biết. Đó là hạnh quả của tứ thiền.

Đạt tới tứ thiền là đạt tới trí tuệ cao tột mà vẫn còn một lòng quyết chí gần gũi độ đời, thì đó là thiền-độ-vô-cực nhất tâm chân như của Bồ tát vậy…

 (Còn tiếp…)

Thứ Ba, 18 tháng 11, 2014

Thoại đầu "em" !

 
Thoại đầu "em" hợp rồi tan
Bóng Chân-lý "kết" lại "tàn" theo hương
Hoá ra " em" vốn vô thường
Hoá ra "em" để cúng dường Pháp-thân
...
Chuông chùa không đánh mà ngân...
Vô vi tịnh tĩnh cũng ngần ấy thôi!.
 

         Nói về Thiền công án là nói đến việc ứng dụng câu thoại đầu giúp cho thiền sinh đi sâu vào suy tư để nhận rõ được bản tính của vạn hữu. Công án "thoại đầu" có khi lấy người, có khi lấy cảnh, có khi lấy vật, có khi lấy một ý niệm vu vơ nào đó... mục tiêu của người thầy đưa ra câu thoại đầu là giúp trò chiêm nghiệm sâu xa về thực tại để đánh phá sự vướng mắc về Ngã chấp tướng và Pháp chấp tướng. Người trò tiếp nhận câu thoại đầu để quán sát, để suy tư. Đến một lúc nào đó tâm-cảnh hợp nhất, sự hợp nhất này là nhận thức được tính tương-tức của vạn pháp. Tâm cảnh tương tức chính là việc quy sự thấy và vật được thấy về thể tính chung của cái thấy, sự thấy (năng kiến) và vật được thấy (sở kiến) chính là duyên khởi như huyễn, nhận thức được như vậy liền đó rõ được ngoài tâm không có cảnh và ngoài cảnh không có tâm, rõ được tính bình đẳng của vạn pháp mà xa rời đối đãi phân biệt, sơ lược khái niệm tương tức của chư pháp là như vậy.

Sau khi giác ngộ được Chân lý, hành giả dần thâm nhập vào cảnh giới tịch-mặc vô-ngôn. Cái cảnh giới này là thông tỏ thực tại nhiệm màu vốn tịch nhiên bất động, cái biến dịch hay những cái được gọi là vật đó chẳng qua do móng (vọng) tâm mà có chứ vạn pháp vốn đồng một thể tính, thấy như thế là thấy được lý Vô ngôn của chư pháp, nghĩa là ở tính thường trụ "tịch tĩnh". Rồi từ đó thế giới trong và ngoài hành giả giác ngộ không còn sự so đo nghi hoặc, với tâm tự tại, đến đi theo duyên mà không còn vướng mắc. Vạn hữu bây giờ chính là phương tiện để khai mở cho các vọng thức sai lầm của mình, của người. Ngài Trí Giả Đại sư từng dùng Thiền để giải Dịch, mục tiêu cũng là để cho người dựa theo pháp thế gian mà vào pháp xuất thế gian. Trong Kinh Hoa Nghiêm, ý niệm về Ngài Tự Tại Chủ hiện thân trong hình tướng đứa trẻ nghịch cát trên bờ biển là phương tiện giáo huấn cho Thiện Tài đồng tử về toán pháp vô tận của pháp giới vũ trụ...Mỗi mỗi phương tiện như vậy, mỗi mỗi câu thoại đầu như thế đều là công án để giúp người trở về với pháp-thân thường trụ của chính mình. Đó là ý của câu thơ "Hoá ra "em" để cúng dường Pháp-thân". Hoá-ra-em là phương tiện ngôn ngữ để giúp hành giả trở về với pháp thân thường trụ.
Cũng như một căn phòng tối, khi thắp đèn lên thì ánh sáng chan hoà, liền đó bóng tối biến mất. Phương tiện (thoại đầu) cũng vậy. Khi cần thì phát huy diệu dụng (kết), sáng tỏ rồi thì trở về với pháp giới tịch nhiên. Thơ viết "tàn theo hương", hương ở đây chúng tôi muốn nói đến chính là ngũ phần danh hương, gồm: hương giới, hương định, hương tuệ, huơng giải thoát, hương giai thoát tri kiến. Khái niệm "kết" rồi "tàn" chính là bản tính vô thường của tâm thức. Gọi tâm thức nghĩa ở tướng của tâm chứ không phải ở bản-Tâm (Tính) thường trụ. Bản tâm sau khi giác ngộ của chúng sinh không có thêm không có bớt. Chỉ có kết sử là vô minh tan rã cùng lúc với sự giác ngộ mà thôi.

Kinh Thủ Lăng Nghiêm tu chứng mật nhân liễu nghĩa, phần Đức Phật từ bi chỉ bày cho Ngài A Nan về cái Tâm vốn thường trụ cùng khắp. Như khi gõ tiếng chuông thì nghe tiếng, đến khi không gõ nữa thì không nghe tiếng. Như vậy Tính-nghe không phụ thuộc vào âm thanh có hay không…cho đến sắc, hương, vị, xúc, pháp. Thấu rõ được bản Tâm cùng khắp như vậy thì cũng là nghe được tiếng “chuông-chùa-không-đánh- mà-ngân”. Thông tỏ bản Tâm gồm đủ tính Diệu-Minh, nghĩa là thấy biết được Tính bản nhiên cùng khắp tuỳ niệm mà hiện khởi. Phát hiện là tính Minh, hiện khởi là tính Diệu. Dù là Diệu biến nhưng bản Tâm là trùm khắp không có sinh không có diệt, không có đến-đi…đó là tính Vô Vi tịch tĩnh của Chân Tâm vậy. Cũng là ý chính của hai câu thơ:
Chuông chùa không đánh mà ngân...
           Vô vi tịnh tĩnh cũng ngần ấy thôi!.
(còn tiếp...)