Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023

BÁT NHÃ THI KÝ

 BÁT NHÃ THI KÝ


Tuyển tập 2 – Thơ và ký hoạ

QUẢNG KIẾN NGUYỄN VIỆT HỒNG

Trang 1-2

LỜI PHI LỘ

“Bát Nhã thi ký” là tập hợp những bản ký hoạ, kệ và những bài thơ

về các triết lý, khái niệm khác nhau của Phật giáo.

Những nét hoạ phong cảnh chùa, những vần thơ trào hứng,

từ nguồn mạch tâm linh bình lặng, từ ý nguyện Quy Y Tam bảo,

để vượt qua chặng đường cát bụi.

Dù tất cả những rung động hay phóng tác của nét bút,

của thi ca, được tác giả lưu lại với bất cứ tâm thức nào đi nữa,

thì chúng vẫn là kết quả đáng trân trọng trên con đường tu để chứng.

 

Tùng lâm Hương Tích xin được giới thiệu,

tập thơ của tác giả Phật tử Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng.

 

Sa môn Thích Minh Hiền

 

Trang 3-4


Mười năm tu Phật không dài nhưng cũng chẳng ngắn.

Vì nhiều nhân duyên: ĐÃ-ĐANG-ĐỂ,

Quảng Kiến nay tạm tổng kết, làm mốc quy chiếu để tiến lên.

 

ĐÃ-ĐANG-ĐỂ

 

(ĐÃ)...

Mười năm tu Phật chưa ngừng nghỉ

Chẳng có chi khoe, nỏ muốn gì

(ĐANG)...

Tu mật, tham thiền, hành tịnh độ

Quán-Chân, ly-vọng: hướng Vô-vi

Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm... học

Ngũ ấm giai không, ngũ-trí trì

Vô-hữu, diệt-sinh...giờ khái niệm!

Từ Bi Hỷ Xả...hạnh đang vì.

(ĐỂ)...

"Vô tận không thời vô tận ý

Thị chưa từng bận huống gì phi.”

 

Trang 5-6

DIỆU PHÁP LIÊN HOA

“Tịnh tướng”, “Tính Chân” thể đó mà
Vô biên diệu dụng: Nhất liên hoa
Lá cành gốc rễ thành hoa quả
Lâu chóng nhỏ to lực tác ra
Duyên khởi trùng trùng vô lượng pháp
Nhị môn tích bản: Nhất là đa
Thị khai ngộ nhập: Phật tri kiến
Diệu pháp liên hoa: Tướng Phật đà.

 

Trang 7-8

 

QUY Y TAM BẢO

Dẫn:

Đời người một thoáng chiêm bao

Sống không tu chỉnh khác nào sống mê.

Nhập:

Quy y Tam Bảo,

Quay về bản tâm thanh tịnh xưa nay.

Kìa Bát-phong gió thổi mây bay,

Nhà Vô-Sự hỏi là đây có phải?

Sáng rung chuông nhất tâm hối cải,

Chiều gõ mõ niệm Phật tụng kinh.

Thi thoảng trong tâm có hiện vọng tình,

Kẻ mới tu giật mình giấc mộng huyễn

Này tứ cú kệ, này Kinh vạn quyển,

Này lý thời không, này trí Bát Nhã.

Thoáng suy sao tỏ Phật - Ma,

Bởi Lý Sự nó trùng trùng duyên khởi.

Vạn pháp duy tâm lý đó mà tới,

Vạn hạnh thật tính sự đó mà đi.

Tâm phân biệt ấy có Vô-Vi,

Hay để cảnh hiện tiền đưa đi mãi?

Tỉnh thức từ đây không sợ hãi,

Tu pháp chư Phật chẳng có sai.

Càng tinh tiến Đạo-hạnh càng cao!

 

Trang 9-10

 

CHÂN KHÔNG

Phật tính xưa nay vốn tịnh thường

Xuất trần đại sự toả vầng dương

Trì kinh niệm chú tâm khai mở

Hành thiện giúp đời tỏ tấm gương

Hỷ xả từ bi, chân diện mục

Ban vui cứu khổ, hiểu và thương

Đêm ngày tỉnh thức, chân không quán

Tịnh độ nhân gian, rõ con đường.

 

DIỆU HỮU

Bản Tính vô hình, Tướng diệu-không

Tham sân si hận bởi chưa thông

Trùng trùng duyên khởi Sa bà hiện

Kiếp kiếp luân hồi bởi huyễn-không

Tỉnh mộng quay về soi tự tính

Kéo rèm mở cửa đón vầng đông

Bốn mùa như vậy tâm thanh tịnh

Đối đãi ngại gì có với không.

 

Trang 11-12

 

MẸ BÁT NHÃ

Mẹ từ tự tính sinh ra

Nuôi con khôn lớn dạy xa não phiền

Nơi võng ru tới mọi miền

Nương nhân duyên khởi tu thiền quán không

 

Mẹ là giọt nước lành trong

Xoá tan hư huyễn thong dong đi về

Mười phương cũng một miền quê

Làm duyên khai ngộ giác mê cho người

 

Mẹ là một đoá hoa tươi

Điểm tô chân lý ở nơi hồng trần

Vì chúng sinh hiển pháp thân

Từ Bi Hỷ Xả thập phần viên thông

 

Muôn kiếp mẹ vẫn dõi trông

Giúp đàn con nhỏ thoát vòng tử sinh

Người là Bát Nhã tâm kinh

Dìu con từng bước tiến trình ngộ Tâm.

 

Trang 13-14

 

CHÙA GIẢI OAN

Chùa Giải Oan đây Đức Quan Âm

Nghe cầu và cứu độ chúng sinh

An vui giải thoát hết não phiền

Đến cửa thiền người người tu thiện

Đây suối nguồn cam lộ thiêng liêng

Nghe Phật sinh linh quy chính pháp

Vững lái thuyền từ qua biển khổ

Bên kia: bờ giác đến nơi rồi.

 

Oan oan giải giải oan đâu giải

Thân, tâm, ngã, pháp ấy: Chân không

Trí, ngôn, đắc,hành: là vô tướng

Quá khứ hiện tại đến vị lai

Thuận theo tính chân vốn không mê

Nguyện tu Phật thừa là vô ngộ

Bờ mê huyễn hóa như trò dối

Thuyền từ phương tiện độ chúng sinh

Bến giác an trụ mà vô trụ.

 

Trang 15-16

 

Mải tìm,

tâm giữa hư không

Mòn chân mỏi gối

Dặm không rã rời

Ta bèn,

Đến chốn không nơi

Ngồi nơi không chỗ

Thấy tâm chẳng rời.

 

TÍNH DIỆU

Vẫn nên đi đến chốn không nơi

Để thấy rõ hơn cái chẳng rời

Thủy, Hỏa, không-hư từ diệu biến

Bất giác chẳng hiện, gió mây thôi.

 

Trang 17-18

 

PHÁP THÂN

Đêm đông chùa vọng tiếng chuông ngân

Sóng ánh trăng thanh cảnh sáng ngần

Ngọn cỏ đầu sương bừng tỉnh ngủ

Tháp vương đỉnh bạc chiếu xa gần

Tâm thôi tục lụy: trần không vướng,

Vạn tượng Sum la hiển pháp thân.

Ai rõ Chân-không và Diệu-hữu,

Vô-vi cảnh giới mới thêm phần!

 

PHƯƠNG TIỆN

Pháp giới tịch nhiên chẳng thể mờ

Có chăng cũng ở chỗ văn thơ

Sớm về ai đã là nhanh biết

Muộn đến người chưa tỉnh giấc mơ.

Xứ diệt tâm hành chư Tổ dạy

Ngôn thời khác biệt bởi căn cơ

Nếu hay đạo cả vô phân biệt

Phương-tiện tuỳ duyên chớ hững hờ.

 

Trang 19-20

 

TÍN

Niệm A Di Đà

Sớm thoát Sa Bà

Sinh miền Cực Lạc

Não phiền trôi xa!

NGUYỆN

Niệm A Di Đà

Điên đảo tránh xa

Tâm thường tịch tĩnh

Dẹp hết ấm ma!

HẠNH

Niệm A Di Đà

Tính Phật, tính ta

Thấy cùng một thể

Hết cảnh Sa bà!

HÀNH

Niệm A Di Đà

Hết thiện với tà

Rời xa phân biệt

Theo bước Phật Đà!

CHỨNG

...theo bước Phật Đà

Tự giác, giác tha

Vãng sinh Cực Lạc

...Tịnh độ tâm Ta!

 

Trang 21-22

 

VÔ TRỤ

Con đò dẫu vắng người đưa

Dòng sông vẫn chảy sớm trưa nắng đời

Đến đi nhưng chẳng có rời

Đò này vô trụ chở người vô tâm.

 

THUYỀN KHÔNG

Tâm bình cõi tạm hiểu thương thôi

Mây trắng đường xưa tĩnh lặng rồi

Sáng nắng chiều mưa đời huyễn ảo

Lên cao xuống thấp nghiệp không rời

Tu hành tinh tiến điều chân thật

Bát nhã thuyền không rẽ sóng chơi

Rực ánh quang minh đưa dẫn lối

Tâm bình cõi tạm hiểu thương thôi

 

Trang 23-24

 

THÂN THỤ TÂM PHÁP

Quán thân bất tịnh

Sự vật tướng tâm

Huyễn huyễn minh minh

Chẳng mình, chẳng vật

Thân là bất tịnh.

 

Thụ quán là khổ

Khổ hạnh là tà

 Có vui có khổ

Thế tục mãi khổ

Quán thụ thị khổ.

 

Quán tâm vô thường

Chạy khắp mọi đường

Tạo lắm tai ương

Chấp thường chấp đoạn

Cõi tục: vô thường.

 

Quán pháp vô ngã

Sinh diệt giả dối

Duyên diệt duyên sinh

Người không ta chẳng

Luân hồi:vô ngã.

 

Trang 25-26

 

TÌM EM

Tìm em ở bến chân Tâm

Dong thuyền Bát-Nhã âm thầm anh qua

Duy-Thức tướng sóng gần xa

Lăng-Nghiêm đại định bao la đất trời

Pháp-Hoa một đoá sen tươi

Ngời trong ánh mắt mười phương Sa Bà

Chính tà một thể Duy-Ma

Rời xa vọng tưởng Lăng-Già truyền trao

Tĩnh tịch mặc kệ trần xao

Thấy em vẫn đó chưa bao giờ rời.

 

Trang 27-28

 

TIỂU THỪA

Theo gió chiều nay rời chốn cũ

Thời gian mặc kệ tiết xuân thu

Rời xa vọng tưởng miền hư ảo

Tránh lại quẩn quanh vũng nước

ĐẠI THỪA

Thế gian hám cảnh vũng nước tù

Hành Bồ tát đạo nguyện thanh tu

Uế trược ra sao đều huyễn ảnh

Đạo thành cũng ở lục căn thu.

 

Trang 29-30

 

ĐI LÀ TỚI

Mọi sự đều phải tự ta

Cơm ăn áo mặc cũng thế mà

Đường xa vạn dặm đi là tới

Muôn nẻo luân: hồi bước chân ra

TỪ ĐÀM GIÀ LAM

Bước tới Từ Đàm hết nói năng

Đèn kia có sáng chẳng bằng trăng

Sớ sao cũng chỉ là mây gió

Đốm lửa tro tàn: nước đóng băng.

 

Trang 31-32

 

TỔ SƯ BỒ ĐỀ ĐẠT MA

Đông Độ xưa kia Tổ hóa duyên

Một mình quẩy dép dụng phao thuyền

Chín năm bích diện ngài tu quán

Vô thỉ chúng sinh quên bản nguyên

Tuệ Khả cầu sư tìm sự thật

Vì tâm tối thượng chặt hữu quyền

Từ da tới tủy đường tu chứng

Sư tổ truyền Tâm: chính pháp truyền.

 

Trang 33-34

 

CHÂN KHÔNG

Không đây là chẳng có chi

Có thì cũng chẳng là gì nên không

Không đây chẳng phải có không

Có là Diệu-hữu Không là Chân-không

DIỆU HỮU

Vạn pháp bản lai chẳng có-không

Có chăng thế tục nợ đèo bồng

Không là không tướng ta cần rõ

Diệu-hữu, Chân-không vốn vẫn đồng.

 

Trang 35-36

 

ĐỘNG ĐẠI BINH

Đại Binh tĩnh mịch cõi Hương Thiên

Có bóng hình ai trước cửa thiền

Thuở trước anh hùng lưu sử sách

Giờ đây còn lại hạnh trung kiên

Một thanh gươm vạch trời ngang dọc

Bão táp há dời được nguyện riêng

Đại địa viên dung là đúng lý

Chẳng còn tướng ngã, chẳng còn phiền.

 

Trang 37-38

 

THIỀN TỊNH MẬT

Hãy nên tu thiền

Bỏ chấp nhị nguyên

Xa rời đối đãi

Sạch hết não phiền.

 

Thường tu tịnh độ

An vui chẳng khổ

Sinh gặp Phật Đà

Lo gì chẳng ngộ.

 

Quán tưởng chân thật

Tinh tiến tu mật

Tịnh thân-khẩu-ý

Thì mau quả Phật.

 

KỆ THỈNH CHUÔNG

Tu Tâm dưỡng tính

Cùng thỉnh chuông minh

Pháp thân ứng hiện

Địa ngục nghe kinh

Tam đồ hết khổ

Bát nạn tiêu khuynh

Thường tuỳ Phật học

Cứu độ chúng sinh

Tài danh xin gửi

Bất diệt bất sinh.

 

Trang 39-40

 

THIÊN TRÙ

Đã lâu sam cảnh chẳng về nhà

Nhớ tiếng chuông chùa vọng xa xa

Thung thẳm núi cao chim đua hót

Rừng già mây rủ với ngàn hoa

Rêu phong cạnh đá in bóng núi

Dâu bể vơi đầy đã trôi qua

Bao giờ mưa bão đời ngừng nghỉ

Ta lại đi về với chính ta.

 

Trang 41-42

 

XƯA- NAY

“Thu lai bất báo nhạn lai quy

Lãnh tiếu nhân gian tạm phát bi

Vị báo môn nhân hưu luyến trước

Cổ sư kỷ độ tác kim sư.”

( Kệ thị tịch Tổ sư Từ Đạo Hạnh )

Chẳng phải thu về nhạn mới bay

Cười cho thế sự trả rồi vay

Sao không chính niệm rời năng sở

Tỏ bản Tâm xưa chẳng khác nay.

( Quảng Kiến hoạ thơ Tổ )

 

Trang 43-44

 

THANH TỊNH CẢNH

Chuông vang thức tỉnh nơi nơi

Gieo duyên chân lý khắp trời nở hoa

Suối trong chảy khắp sơn hà

Vui thanh tịnh cảnh mặc tà huy bay.

 

Trang 45-46

 

VÔ ĐỘNG

Chẳng  đến cùng đi chốn bụi trần

Tâm thường hỷ xả những tham sân

Ngoài trong như vậy thường vô động

Mặc gió mây ngàn có với không.

TÂM ĐỊA

Trạch đắc long xà địa khả cư

Dã tình chung nhật lạc vô dư

Hữu thời trực thướng cô phong đỉnh

Trường khiếu nhất thanh hàn thái hư.

( Tổ Không Lộ )

Ở nơi tâm địa mới chân tu

Vui xuất thế gian lục căn thu

Thi thoảng dạo chơi đầu chóp núi

Cười to một tiếng biến không hư.

(Quảng Kiến họa thơ )

 

Trang 47-48

 

TỰ TÍNH

Tự tính chỉ là tự tính thôi

Tính đi tính lại, tính luân hồi

Tuỳ duyên ảnh hiện mà Không- tính

Tự tính thế nào?... tư tính coi?!

 

 

Mỏi mắt nhân gian nhuốm bụi hồng,

Con đường tu đạo sẽ viên thông.

Mênh mang sinh diệt nơi trần thế,

Mải miết đi về với chủ ông

Tinh tiến xa rời không với có,

Muôn đời tự tại có cùng không.

Bích chi, La Hán, đây Bồ Tát,

Chư Phật, chúng sinh tự tính đồng.

 

Trang 49-50

 

VIÊN GIÁC

Có không vô trược thể giác viên

Bản thể Chân không ấy quán thiền

Diệu dụng Bồ đề là đắc đạo

Thập Ba la mật độ nhân thiên.

 

 

NGŨ ẤM LĂNG NGHIÊM

SẮC ẤM

Bất giác khởi nên hình

Sắc ấm từ tâm sinh

Luyến lưu cùng thức vọng

Chẳng thấy tính Diệu-Mminh.

 

THỌ ẤM

Theo vọng ấy chúng sinh

Giác tâm theo thật lý

Vạn vật chẳng hợp ly

Bồ đề thường tịch tĩnh.

 

TƯỞNG ẤM

Bóng kia bởi có hình

Chẳng diệt với chẳng sinh

Bọt nước thì cũng vậy

Lay động mới nên hình.

 

HÀNH ẤM

Bởi thấy giác làm minh

Nên hình thành năng- sở

Sáu căn thường trăn trở

Ngăn ngại tự tâm mình.

 

THỨC ẤM

Luyến lưu tình với cảnh

Đâu rồi cái minh - anh

Huyễn hư là không thật

Pháp giới tính-diệu thành.

 

Phá NGŨ ẤM ma:

Sáu căn tuỳ dụng công

Phát khởi tính viên thông

Ngoài tri và ngoài trí

Rõ mây nước vẫn đồng.

 

Trang 51-52

 

TÂY THIÊN

Muốn đến Tây thiên

Trước hành thập thiện

Bỏ các ác hành

Tinh tiến đi nhanh

Chăm tu thiền định

Tùy duyên nhưng tịnh.

Cứu khắp hữu tình

Ngộ tính Chân không.

Tinh tiến tu tâm

Nhập pháp thậm thâm

Tâm không Tâm có

Thấy rõ chẳng nhầm.

Đó là cốt lõi

Chẳng còn thưa hỏi

Vì còn lời nói

Chẳng phải chân thiền

Ở cõi Tây Thiên.

 

THIỀN TÂM

Tu hành theo Phật tỉnh không say

Tam tạng kinh văn lý hiển bày

Bát nhã sắc không vô sở trụ

Lăng Nghiêm tính thấy rõ đêm ngày

Non xanh, thật tướng hoa chân lý

Nước biếc, thiền tâm bóng Thiện tài

Xuân đến ngàn hoa khoe sắc thắm

Tu hành theo Phật tỉnh không say.

 

Trang 53-54

 

THẤT NGÔN BÁT CÚ

Thất đại xưa nay vốn thể-không

Ngôn từ văn ngữ: nghĩa là đồng

Bát đường thánh đạo: theo đại trí

Cú thật, viên thông: đó Phật tông.

 

GIẢI THOÁT KHÁI NIỆM

Giải-thoát tâm mình, giải-thoát đau

Vấn-vương nghiệp cũ, vấn-vương sầu

Tâm-ta vốn sẵn, tâm-ta nhớ

Nương-nhờ người độ, nương-nhờ đâu

Tự-giác giác tha, tự-giác đúng

Tu-hành giải đãi, tu-hành lâu

Tử-sinh khái niệm, tử-sinh khổ

Khái-niệm đoạn thường, khái-niệm nhàu!

 

Trang 55-56

Ngũ quán QUÁN THẾ ÂM BỒ TÁT

Chính quán Quan Âm đã luyện tu :

Quán-chân đã phá hết lao tù

Quán-tâm-thanh-tịnh không còn nhiễm

Quán từ, bi quán : hết mê ngu

Quán-chân-trí-tuệ : là tinh tiến

Quảng đại Phật thừa : nguyện tịnh tu

Chính tín chúng con : nghe Phật dạy

Muôn đời, muôn kiếp : khó không từ.

 

Trang 57-58

 

TỰ TẠI

Pháp giới diệu hữu đá và hoa,

Bất biến tuỳ duyên cõi Sa bà.

Tầm đạo tham cầu nơi chốn lạ,

Chẳng bằng tự tại ở quê nhà.

 

PHẬT CƯỜI

Bàn chuyện có-không,

Phật mỉm cười.

Đi đây đi đó, lãng du chơi,

Khởi duyên nên vật không thành có

Duyên hết sự sự có hoá không

Sướng khổ buồn vui, lên rồi xuống

Xuân tàn hạ tới, ngắm hoa tươi

Đã về đã thấy quê hương cũ

Hỏi tử với sinh Phật lại cười.

 

Trang 59-60

 

BẤT NHỊ

Người về

từ chốn chẳng đi

Trụ nơi không chỗ

Vô vi tháng ngày.

 

Người về,

chốn chẳng chính tà.

Phật, Ma cũng vậy,

hoá ra độ người.

 

Ta về,

lấy cái không-Ta.

tướng Ma, tướng Phật,

rời xa huyễn hình.

 

Ta về,

với ánh quang-minh

Ngồi nơi tịch tĩnh

hiện hình Chân-không.

 

Người-Ta

Cũng chẳng gần-xa

Nhập là không một

tách là Không-Hai.

 

Trang 61-62

 

CHÙA THIÊN MỤ

Bảy tầng tháp cổ giữa hàng cây

Chuông điểm pháp âm tiếng vọng đầy

Thoang thoảng trầm hương vơi tục lụy

Mơ màng danh vọng chợt tan ngay

Bến xưa thanh tịnh đang chờ đợi

Thuyền lạc chốn nào hãy tới đây

Phật tích chuyển lưu Hương giang chảy

Bóng chùa Thiên Mụ ẩn trong mây.

 

Trang 63-64

 

12 NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ

Tịnh Lưu Ly là nơi đức Phật

Dược Sư quang minh chiếu vô biên

Có mười hai nguyện lớn, như sau:

Nguyện thứ nhất hào quang sáng suốt

Giúp chúng sinh không khác Như Lai

Thứ hai thân sáng ngọc trong

Hào quang soi khắp muôn loài chúng sinh

Thứ ba phương tiện tuỳ duyên

Độ cho đại chúng nguyện tâm viên thành

Thứ tư dạy pháp đại thừa

Khiến người tà đạo theo về chính chân

Nguyện thứ năm đắc bồ đề,

Khiến người phá giới dần dần tịnh tâm

Tịnh Lưu Ly là nơi đức Phật

Dược Sư quang minh chiếu vô biên

Có mười hai nguyện lớn, như sau:

Nguyện thứ nhất hào quang sáng suốt

Giúp chúng sinh không khác Như Lai

Thứ hai thân sáng ngọc trong

Hào quang soi khắp muôn loài chúng sinh

Thứ ba phương tiện tuỳ duyên

Độ cho đại chúng nguyện tâm viên thành

Thứ tư dạy pháp đại thừa

Khiến người tà đạo theo về chính chân

Nguyện thứ năm đắc bồ đề,

Khiến người phá giới dần dần tịnh tâm

 

Trang 65-66

 

BÁC SỸ TÂM MINH LÊ ĐÌNH THÁM

Kiến tính là Tâm Minh

Sa bà hiện độ sinh

Cùng Gia đình Phật tử

Nhập một pháp viên minh.

 

Trùng trùng Lý duyên khởi,

Pháp tính rời cũ-mới.

Báo ân trong muôn một,

Phương tiện, thuận dòng khơi.

 

Lăng-nghiêm: pháp chính Tông

Duy-thức: chủ nhân ông

Tam tạng: nêu chân lý

Hậu học: nguyện viên thông.

 

Trang 67-68

 

NIẾT BÀN

Trí bát nhã sâu chẳng thể bàn

Chân không Diệu hữu độ nhân gian

Thuyền to phương tiện qua bờ giác

Giải thoát chúng sanh tới niết bàn.

 

Ngọc Thiền soi rạng khí non sông

Bước đến mới hay tính thể đồng

Suối chảy bao quanh: hình vạn tượng

Mây vờn đỉnh núi: tướng chân không

Âm vang Bát nhã nguồn chân lý

Tịch tĩnh niết bàn rõ sắc không

Thanh tịnh tu hành vô chướng ngại

Sa Bà phương tiện nguyện viên thông.

 

Trang 69-70

 

VỊNH CHÙA DIÊN KHÁNH

Mây trời thanh tịnh cảnh tây phương

Diên Khánh chùa nay khí toả hương

Cây, đá, lá, hoa:  tâm tĩnh tại

Sách đèn kinh kệ: tỏ vô thường

Bay vờn suối cạn tùng khêu bút

Động khẽ áo tràng trúc viết chương

Giải thoát tâm mình thôi tục luỵ

Từ bi trí tuệ hiểu và thương.

 

Trang 71-72

 

QUÁN NIỆM

Ảo mộng nhân sinh thấy chứa chan

Thầy ngồi quán niệm sự lầm than

Nơi nơi sướng khổ lên rồi xuống

Chốn chốn ử sinh hợp với tan

Vô minh ái thủ: nhân phiền não

Sân si tham độc: quả cơ hàn

Phải chăng sinh chúng đều tu cả

Vạn thuở xuân thu chẳng phải bàn.

 

CHÂN NHƯ

Cũng bởi tâm mình ít có tu

Năng trì Kkinh Phật học minh sư

Xa lìa chấp trước tâm vô nhiễm

Ly dục tu thiền bỏ huyễn hư

Phương tiện tuỳ duyên nhân hoá độ

Thuận dòng sinh tử hạnh bi từ

Đến đi như vậy thường tinh tiến

Luân hồi lục đạo hóa Chân như.

 

Trang 73-74

 

DIỆU TƯỚNG

Duyên ai thấy được Mạn đà la

Tánh không Bát nhã hiện thân ra

Tu hành chân thật miền thanh tịnh

Toả sắc lưu hương khắp mọi nhà

Mặc thế huyễn hư đầy mộng ảo

Thân cành cội rễ vững bồn hoa

Đỏ xanh hồng trắng đều trân quý

Diệu tướng Chân như: Bát đát ra!

( Bát đát ra: Từ bi cứu độ chúng sinh )

 

PHẬT TÂM

Phật về từ bến chân Tâm

Thậm thâm vi diệu hương trầm toả xa

An nhiên trong cõi Sa bà

Sen hồng bảy bước gần xa được nhờ

Trên trời dưới đất tỉnh mơ

Bao nhiêu mộng ảo bây giờ mới hay

Phật ngày xưa, Phật ngày nay

Một tâm chân thật hiện bày mười phương

Dù cho vạn pháp vô thường

Phật tâm mãi mãi miên trường thời gian.

 

Trang 75-76

 

Giác ngộ khi xưa cội Bồ Đề,

Thế tôn tỏ rõ đường về Chân như.

Chúng con giờ cứ huyễn hư,

Đuổi hình bắt bóng cũng từ tâm mê.

Nơi xa con đã trở về,

Nơi đây cõi Phật bồ đề tâm linh.

Đạo tràng vang vọng lời kinh,

Xóa trong con những ngục hình thế gian.

Ngày xưa sinh tử gian nan,

Ngày nay ơn Phật niết bàn nguyện tu.

 

Trang 77-78

 

VỀ-ĐI

Đi tìm,

giọt nước viễn khơi    

Bỏ rơi nguồn cội ở nơi ban đầu.

Về tìm,

quá khứ nơi đâu?

Chân chim lưu dấu trên đầu đó thôi

Về-đi!,

dừng những gọi mời

Chân tâm vô trụ nói lời vô ngôn.

 

TÂM GÌ

Tâm gì?

Chẳng có ồn ào

Chẳng cơn sóng dậy,

chẳng gào thét chi.

 

Tâm gì?

Là lý Vô vi

Là cơn gió nhẹ,

xoá đi huyễn tình.

 

Tâm gì?

Chẳng đục, chẳng trong

Không đi không đến,

thoát vòng tử sinh.

Tâm gì?

Vô tướng, tuệ quang

Chẳng sinh chẳng diệt

Tùy duyên, hóa thành.

 

Tâm gì?

Thật tướng vẹn toàn

Sướng vui cũng mặc

Chẳng cần lợi danh.

 

Tâm gì?

Vạn vật hóa thành

Như như vô ngại,

Thể là Chân như.

 

Trang 79-80

 

VÔ VI

Cư sĩ, xuất gia cũng chẳng vì

Mặc cho thế sự đấu và thi

Đồng ngài Thượng Sỹ xua mây ám

Tiến thẳng đại thừa, dẹp mạn nghi

Xuân hạ thu đông tâm không đổi

Dòng đời xuôi ngược vẫn Vô-vi

Bồ đề hạnh nguyện chưa ngừng nghỉ

Hoá độ chẳng màng sự đến-đi.

 

Trang 81-82

 

TỊNH ĐỘ

Tịnh độ tự tâm thành

Đạo tràng chốn tịnh thanh

Tu hành từng bước một

Tích tụ biển sẽ thành.

 

XUÂN VỀ

Chẳng phải xuân về mới trổ hoa,

Cũng từ xuân đến, tết nhà nhà.

Tình người tính cảnh, đâu phân biệt,

Đời đạo một nhà, không tách xa.

Mùa hạ hoa tàn, xuân lại nở,

Mê mờ trí tuệ, học thông ra.

Phải chăng xuân hạ vòng xoay ấy,

Tỉnh thức đêm ngày mới chính ta.

 

Trang 83-84

MỤC LỤC

 

 

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét