Thứ Ba, 9 tháng 5, 2023

THẬP TÍN

Quá trình tu tập của Bồ tát

Con đường tu hành của một Bồ tát là quá trình phát Bồ đề tâm, tu Bồ tát đạo, hành Bồ tát hành để thành Bồ để quả. Như vậy muốn thành một vị Bồ Tát, Hành giả phải trải qua 50 ngôi vị tu tập và đạt đạo gọi là Bồ Tát Giai Vị.

Thuận theo con đường của Bồ tát đạo, hậu học Quảng Kiến phát tâm biên soạn ghi lại cụ thể các tầng bậc tu hành của một vị Bồ tát, giới thiệu đến những người học Phật. Dựa vào bản dịch của Hoà thượng Thích Thắng Hoan trong kinh Bồ Tát Anh Lạc Bổn Nghiệp quyển thượng, 50 Ngôi vị tu tập của Bồ Tát gồm có: Thập Tín Vị, Thập Trụ Vị, Thập Hạnh Vị, Thập Hồi Hướng Vị và Thập Địa Vị. Cụ thể: 

I.- THẬP TÍN VỊ:

THẬP TÍN VỊ cũng gọi là Thập Tín Tâm, nghĩa là mười đức tin để tu tập của một vị Bồ Tát mà trong đó Tín Tâm đứng đầu. Thập Tín Vị gồm có:

1.- TÍN TÂM: nghĩa là nhất tâm quyết định và an vui trong sự tu tập để mong đạt được thành công mà mình đã đặt hết niềm tin vào đó. Đây là đức tin vững chắc của người tu tập. Một vị Bồ Tát đối với Phật Pháp trước hết phải xây dựng đức tin vững chắc, không bao gi thối tâm lùi bước trước bất cứ một trở lực khó khăn nào lay chuyển và vẫn an vui tự tại trong sự tu tập một khi gặp phải những trở ngại đưa đến. Muốn được thành công ở ngôi vị này. Bồ Tát trong khi tu tập phải diệt cho hết các vọng tưởng của thế gian.

2.- NIỆM TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải thường tu tập về sáu niệm: niệm Phật, niệm Pháp, niệm Tăng, niệm Giới, niệm Bố Thí và niệm các cõi Trời, tức là thường niệm Lục Độ Vạn Hạnh của chư Phật không cho xao lãng.

3.- TỊNH TẤN TÂM: nghĩa là Bồ Tát khi nghe Bồ Tát Tạng phải luôn luôn chuyên cần tinh tấn tu tập các Thiện nghiệp không cho gián đoạn. Bồ Tát Tạng (Bodistsattva-Pitaka) là chỉ cho những Kinh Điển Đại Thừa đề giải thích công hạnh tu nhân và chứng quả của các vị Bồ Tát. Bồ Tát Tạng gồm có các Kinh Điển như là: Kinh Pháp Hoa, Kinh Hoa Nghiêm... đều là những pháp môn tu học của Bồ Tát Tạng.

4. ĐỊNH TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải thường buộc Tâm của mình an trụ nơi sự tướng và nghĩa lý của Phật Pháp một cách tự tại. Trong lúc tu tập Định Tâm, Bồ Tát phải xa lìa hẳn ý tưởng phân biệt về tất cả pháp giả dối và thô tục của thế gian.

5.- HUỆ TÂM: nghĩa là Bồ Tát khi nghe Bồ Tát Tạng phải nên quán sát, xét đoán và cân nhắc một cách kỹ lưỡng về nghĩa lý của vạn pháp để nhận được tự tính của muôn pháp đều là thật không và tĩnh lặng. Tự Tính của vạn pháp thì không có vấn đề Ngã và Nhân, nên gọi là Vô Ngã và Vô Nhân.

6.- GIỚI TÂM: nghĩa là một vị Bồ Tát khi thọ giới luật thanh tịnh của Bồ Tát thì phải giữ gìn Thân Miệng, và Ý cho được thanh tịnh, giữ gìn không cho vi phạm bất cứ những lỗi lầm nào. Bồ Tát nếu như có phạm lỗi thì phải sám hối để cho tội lỗi sớm được tiêu trừ.

7.- HỒI HƯỚNG TÂM: là phương pháp tu tập các thiện căn. Hồi Hướng Tâm nghĩa là Bồ Tát chỉ đem tậm nguyện hướng về nơi quả Bồ Đề làm cứu cánh mà không nguyện hướng về nơi các cõi trong Tam Giới và chỉ đem tâm nguyện hướng về sự bố thí để cứu khổ cho tất cả chúng sinh làm hạnh vị tha mà không mong cầu lợi ích cho mình. Hơn nữa Bồ Tát còn quyết chí đem tâm nguyện hướng về nơi cõi chân thật làm mục đích mà không đắm trước nơi danh tướng giả tạo trong thế gian.

8.- HỘ PHÁP TÂM: nghĩa là đề phòng và bảo hộ bản tâm của mình mà không cho nó phát khởi phiền não. Bồ Tát muốn bảo hộ bản Tâm của mình thì phải tu tập Mặc Hộ (giữ gìn sự tĩnh lặng), phải tu tập Niệm Hộ (giữ gìn chính niệm), phải tu tập Trí Hộ, (bảo hộ Trí Tuệ), phải tu tập Tức Tâm Hộ (giữ gìn tâm niệm đã dứt các phiền não) và cũng phải giữ gìn năm pháp Hộ Hành khác. Năm pháp Hộ Hành khác cũng gọi là năm Chủng Hạnh. Năm Chủng Hạnh là: Thọ Trì, Đọc, Tụng, Giải Thuyết (Giải thích và thuyết pháp Kinh Luận) và Thơ Tả (Viết sách). Năm thứ này cũng phải giữ gìn thường xuyên.

9.- XẢ TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải xả bỏ tâm niệm yêu tiếc sinh mạng và tài sản của mình. Bồ Tát nếu như đã được tài sản và thân mạng thì có thể xả bỏ một khi cần đến mà không có khởi tâm luyến tiếc hoặc hối tiếc.

10.- NGUYỆN TÂM: nghĩa là Bồ Tát phải đem tâm phát nguyện luôn luôn tu tập các pháp môn thanh tịnh của chư Phật đã dạy sớm được chứng đắc. Đồng thời Bồ Tát phải có bổn phận khiến cho các pháp môn của chư Phật càng thêm được sáng tỏ và càng thêm được phổ biến khắp mọi từng lớp chúng sinh.  

 

(còn tiếp)

Thứ Hai, 8 tháng 5, 2023

THẬP TRỤ BỒ TÁT


 II.- THẬP TRỤ VỊ

THẬP TRỤ VỊ cũng gọi là Thập Địa Trụ hay Thập Pháp Trụ hoặc gọi là Thập Giải. Xuyên qua quá trình tu tập của Bồ Tát, Thập Trụ Vị đây là một trong 50 ngôi vị hành trì. Thập Trụ Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 11 cho đến ngôi vị thứ 20. Sau khi trang bị xong chất liệu Thập Tín Vị để tu tập. Hành Giả bắt đầu khởi điểm Thập Trụ Vị để tiến hành. Thập Trụ Vị gồm có:

1.- SƠ PHÁT TÂM: cũng gọi là Phát Ý Trụ. Sơ Phát Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào nơi Sơ Phát Tâm làm căn bản tu tập, tức là y cứ vào khởi điểm của sự Phát Tâm để tu tập. Phát Ý Trụ nghĩa là an trụ vào chỗ phát khởi Tâm Ý làm mục đích. Để an trụ căn bản vào nơi Sơ Phát Tâm, Bồ Tát trước hết phải tiến tu các phần Thiện căn và đồng thời sử dụng các phương tiện chân thật để phát khởi Tâm niệm của Thập Trụ. Kế đến, Bồ Tát đem Tín Tâm đó phụng sự Tam Bảo, thường căn cứ vào 84 ngàn Bát Nhã Ba La Mật Đa để tu tập tất cả hạnh lành của tất cả Pháp Môn. Ngoài ra, Bồ Tát còn phải thường xuyên phát khởi Tín Tâm để không tạo nên những Tà Kiến, không phạm bởi những Thập Ác (1), Ngũ Nghịch (2), Bát Đảo (3) và không cho sinh vào nơi tai nạn. Hơn nữa Bồ Tát thường nên nghiên cứu Phật Pháp để được học rộng biết nhiều và cũng thường nên cần cầu nhiều phương tiện hành trang để sớm được vào cõi Không, để được an trụ vào nơi tính Không. Đồng thời Bồ Tát còn sử dụng Tâm Trí của lý Không đã đạt được đó ra công tu tập Pháp Môn của Cổ Phật và khiến cho tất cả công đức đều được phát sinh từ nơi Tâm Trí nói trên. Đây là công hạnh của Sơ Phát Tâm Trụ.

2.- TRÌ ĐỊA TRỤ: cũng gọi là Trị Địa Trụ. Trị Địa Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự sửa trị, còn Trì Địa Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì. Để an trụ vào nơi Trì Địa, Bồ Tát nương theo cái Tâm Không đã đạt được để thanh tịnh 84 ngàn Pháp Môn. Tâm Thanh Tịnh sáng suốt đó cũng giống như Ngọc lưu ly hiện ra vàng rồng. Do bởi Diệu Tâm phát khởi, Bồ Tát mới tiêu trừ được những tội lỗi nghiệp chướng nên gọi là Trì Địa Trụ.

3.- TU HÀNH TRỤ: cũng gọi là Ứng Hành Trụ. Tu Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự hành trì tu tập. Ứng Hành Trụ nghĩa là an trụ vào nơi sự du hành để khất thực (Ứng cúng). Bồ Tát đã đầy đủ Trí Tuệ thông minh sáng suốt của Sơ Pháp Tâm Trụ và Trì Địa Trụ thì có thể du hành khắp mười phương không bị chướng ngại. Đây là chỉ cho sự thành quả tu tập của Tu Hành Trụ.

4.- SINH QUÍ TRỤ: Sinh Quí Trụ nghĩa là Bồ Tát nhờ Diệu hạnh của Tu Hành Trụ ở trước nên kết hợp được Diệu Lý nơi chốn U Minh (Thế Giới Nội Tâm), tức là Bồ Tát sẽ thực thụ sinh vào nơi Diệu Lý đó và sẽ được làm Pháp Vương Tử con của nhà Phật. Diệu Hạnh đối với tính Phật thì không khác nhau và sẽ thọ nhận một phần khí chất của tính Phật để làm trợ duyên cho sự sinh khởi. Trường hợp này cũng giống như Thân Trung Ấm của một chúng sinh tự cầu nơi cha mẹ và sẽ nhập vào hạt giống của đức Như Lai để làm nhân duyên cho sự chuyển sang kiếp sau được sinh trong nhà Như Lai. Nguyên do nơi cõi U Minh (Thế Giới Nội Tâm), Diệu hạnh của Bồ Tát đã có đức tin vững chắc thì nhất định sẽ được dung thông và cũng sẽ được hội nhập để kết thành nhân duyên cho kiếp sau. Đây là ý nghĩa của Sinh Quí Trụ.

5.- PHƯƠNG TIỆN CỤ TÚC TRỤ: cũng gọi là Trụ Thành Trụ. Phương Tiện Cụ Túc Trụ nghĩa là an trụ vào các phương tiện đầy đủ, tức là Bồ Tát đã trang bị đầy đủ các phương tiện. Tu Thành Trụ nghĩa là an trụ vào sự kết quả của hạnh tu tập. Bồ Tát đã trang bị đầy đủ các phương tiện tu tập, nghĩa là Bồ Tát đã tu tập đầy đủ vô lượng thiện căn và sử dụng các Thiện Căn đó để làm lợi ích cho mình cũng như lợi ích cho mọi người. Nhờ tu tập vô lượng Thiện Căn, Bồ Tát đạt đến kết quả là thành tựu được Thân Tướng của mình trở nên tròn đầy tốt đẹp và dung mạo của mình lộ nét đoan trang thanh thoát. Đây là chỉ sự thành quả của Phương Tiện Cụ Túc Trụ.

6.- CHÍNH TÂM TRỤ: cũng gọi là Hành Đăng Trụ. Chính Tâm Trụ nghĩa là an trụ vào Tâm Chân Chính. Hằng Đăng Trụ nghĩa là an trụ vào sự đi lên. Bồ Tát an trụ vào Chính Tâm tức là đã thành tựu được Bát Nhã thứ sáu. Bát Nhã thứ sáu là chỉ cho Trí Tuệ Diệu Quan Sát. Sau khi thành tựu được Bát Nhã thứ sáu, Bồ Tát không những chỉ được kết quả là tướng mạo của mình trở nên tốt đẹp tròn đầy trong sáng và còn kết quả hơn nữa là Bản Tâm của Bồ Tát cùng với Phật Tâm đều giống nhau như một. Đây là chỉ cho sự thành quả của Chính Tâm Trụ.

7.- BẤT THỐI TRỤ: cũng gọi là Bất Thối Chuyển Trụ. Bất Thối Trụ hay Bất Thối Chuyển Trụ đều nghĩa là an trụ vào ngôi vị này thì tâm không còn bị thối chuyển nữa. Bồ Tát an trụ vào ngôi vị Bất Thối tức là đã thể nhập được nơi cứu cánh của Không Giới Vô Sinh. Cứu Cánh của Không Giới Vô Sinh nghĩa là thế giới Không Tướng của Chân Như và thế giới đó rốt ráo không còn dấu vết của sinh tử lưu chuyển nữa. Ở đây Tâm của Bồ Tát thì luôn luôn thực hiện Hạnh nguyện Vô Tướng của Tính Không Chân Như. Lúc đó Thân và Tâm của Bồ Tát liền hòa hợp lại nhau làm thành một thể. Thân Tâm hòa hợp này mỗi ngày mỗi tăng trưởng thêm lớn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Bất Thối Trụ.

8.- ĐỒNG CHÂN TRỤ: nghĩa là non trẻ và trong sạch. Đồng Chân Trụ nghĩa là an trụ vào thời kỳ thanh tịnh trong trắng. Bồ Tát khi an trụ vào Đồng Chân tức là lúc đó Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát tự nhiên phát khởi một cách tinh tiến và thuần chính. Thân Tâm hòa hợp của Bồ Tát phát khởi trước sau đều chuyên nhất và phát khởi không có chút điên đảo mê tưởng. Cho đến Bồ Tát cũng không có dấy niệm tà ma ngoại đạo để phá hoại hạt giống Bồ Đề. Nhờ đấy, cùng một lúc, mười Thân Tướng linh ứng của Phật (5) liền hiện bày đầy đủ trọn vẹn. Đây là chỉ cho sự thành quả của Đồng Chân Trụ.

9.- PHÁP VƯƠNG TỬ TRỤ: cũng gọi là Liễu Sinh Trụ. Pháp Vương Tử nghĩa là con của Phật. Liễu Sinh Trụ nghĩa là an trụ vào sự chấm dứt lẽ sống chết. Kể từ Sơ Phát Tâm Trụ cho đến Sinh Quí Trụ thứ tư, bốn Trụ nói trên đều được gọi là Bồ Tát mới vào Bào Thai của bậc Thánh, còn từ Phương Tiện Cụ Túc Trụ thứ năm cho đến Đồng Chân Trụ thứ tám, bốn Trụ kế tiếp đều được gọi là giai đoạn nuôi dưỡng Thánh Thai để sớm được mau lớn. Riêng Pháp Vương Tử Trụ thứ chín là mới chỉ cho Thánh Thai đó đã đầy đủ hình tướng và có thể sinh ra để thành con của Phật, nên gọi là Pháp Vương Tử. Thí dụ này không ngoài mục đích là trình bày Trí Tuệ của Bồ Tát đã được phát sinh từ nơi giáo pháp cao quí của Phật. Nhờ Trí Tuệ đó, Bồ Tát mới đủ khả năng kế thừa Pháp Bảo và đồng thời phát huy ngôi vị của Phật càng thêm rộng lớn. Đây là ý nghĩa của Pháp Vương Tử Trụ.

10.- QUÁN ĐẢNH TRỤ: cũng gọi là Bổ Xứ Trụ. Quán Đảnh Trụ nghĩa là Bồ Tát đã là con của Phật thì nhất định phải có trách nhiệm thi hành các Phật sự. Do đó đức Phật mới dùng nước Trí Tuệ rưới lên đỉnh đầu của Bồ Tát để thọ ký, nên gọi là Quán Đảnh. Thí dụ như, con của vua Sát Đế Lợi thọ nhận quyền uy nơi vua cha bằng cách chịu sự rưới nước phép lên đỉnh đầu của vua cha ban cho. Một vị Bồ Tát khi đạt đến Quán Đảnh Trụ thì đầy đủ ba Biệt Tướng:

a/- ĐỘ CHÚNG SINH: nghĩa là Bồ Tát đó đã đủ khả năng thi hành và có thể thành tựu được mười Chủng Trí (4) để hóa độ chúng sinh.

b/- ĐẠT ĐƯỢC CẢNH GIỚI MẦU NHIỆM: nghĩa là Bồ Tát đó đối với tất cả chúng sinh cũng như đối với Pháp Vương Tử Trụ thứ chín đều có thể trắc nghiệm đo lường được những cảnh giới của họ.

c/- HỌC RỘNG MƯỜI CHỦNG TRÍ: nghĩa là Bồ Tát đó nhất định phải thấu hiểu tường tận và rành mạch tất cả pháp.

Một vị Bồ Tát hoàn thành được ba Biệt Tướng nói trên tức là đã an trụ vào Quán Đảnh của Thập Trụ Bồ Tát.  


Chủ Nhật, 7 tháng 5, 2023

THẬP HẠNH VỊ BỒ TÁT



 III.- THẬP HẠNH VỊ:

THẬP HẠNH nghĩa là mười phương pháp tu hành về công hạnh lợi tha của Bồ Tát. Thập Hạnh Vị trên cũng gọi là Thập Tâm Hạnh. Thập Hạnh Vị đây là một trong 50 ngôi vị tu tập của Bồ Tát. Thập Hạnh Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 21 cho đến ngôi vị thứ 30. Thập hạnh Vị gồm có:

1.- HOAN HỶ HẠNH: nghĩa là Bồ Tát với hạnh nguyện hoan hỷ dùng vô lượng diệu đức của Như Lai (của Phật) để tùy thuận hóa độ cho chúng sinh trong mười phương cõi.

2.- NHIÊU ÍCH HẠNH: nghĩa là Bồ Tát dùng mọi phương tiện khéo léo để làm lợi ích cho chúng sinh và khiến cho chúng sinh không bị mặc cảm trong sự thọ nhận lợi ích.

3.- VÔ SÂN HẬN HẠNH: nghĩa là một vị Bồ Tát luôn luôn phải thể hiện hạnh nhẫn nhục với mọi cộng việc, tức là Bồ Tát không bao giờ có thái độ giận tức trước bất cứ việc trái nghịch nào, cho đến cũng không bao giờ có ý hại mình và hại người. Một vị Bồ Tát thật hành hạnh không sân hận là phải nhún nhường cung kính mọi người và phải nhẫn nại mỗi khi đối diện trước oán cừu thù nghịch.

4.- VÔ TẬN HẠNH: cũng gọi là Vô Khuất Nạo Hạnh (Công hạnh không hèn yếu chùn bước). Vô Tận Hạnh nghĩa là Bồ Tát phát tâm đại tinh tấn, nguyện độ tất cả chúng sinh không cùng tận. Trên con đường độ sinh, Bồ Tát tỏ ra siêng năng không chút giãi đãi, không chút yếu hèn và chùn bước trước mọi sự khó khăn đưa đến. Bồ Tát thật hành hạnh độ tha cho đến khi nào chúng sinh đều chứng quả Niết Bàn mới mãn nguyện.

5.- LY SI LOẠN HẠNH (Lìa mê loạn tâm): nghĩa là Bồ Tát thường an trụ nơi chính niệm để cho Tâm không bị tán loạn. Bồ Tát đối với tất cả pháp môn đều thông minh sáng suốt.

6.- THIỆN HIỆN HẠNH (Khéo thật hành công hạnh hiện tại): nghĩa là Bồ Tát đã thanh tịnh được ba nghiệp cho nên biết rõ tận gốc rễ của các pháp hữu vi cùng các pháp vô vi, vì thế Bồ Tát không bị ràng buộc cũng như không chấp trước một pháp nào cả. Mặc dù tự tại đối với mọi pháp, Bồ Tát vẫn không bỏ công hạnh giáo hóa chúng sinh của mình.

7.- VÔ TRƯỚC HẠNH: nghĩa là hạnh không nhiễm trước. Bồ Tát thật hành hạnh không nhiễm trước là thường trải qua các cõi Phật (Trần Sát Phật) để cúng dường và cầu pháp. Tâm thành cúng dường và cầu pháp của Bồ Tát không có chút nhàm chán. Mặc dù bận Tâm trong công việc cúng dường và cầu pháp nơi các cõi Phật, Bồ Tát vẫn thường dùng trí tuệ tịch diệt để quán chiếu và nhận chân các pháp. Nhờ đó đối với các pháp môn, Bồ Tát vẫn không bao giờ khởi tâm nhiễm trước.

8.- TÔN TRỌNG HẠNH: nghĩa là Bồ Tát đều tôn trọng các pháp thuộc thiện căn phước đức cũng như các pháp thuộc trí tuệ giác ngộ. Theo như Bồ Tát, cả hai loại pháp môn nói trên đều có thể thành tựu được vô lượng công đức an lạc và giải thoát. Cho nên, Bồ Tát cần phải tiến tu gồm cả hai lợi hạnh là: hạnh tư lợi và hạnh lợi tha.

9.- THIỆN PHÁP HẠNH: nghĩa là Bồ Tát cần phải thành tựu cho được tất cả Thiện Pháp độ tha của bốn Pháp Môn Vô Ngại Đà La Ni để bảo hộ Chính Pháp và khiến cho giống Phật không bị diệt mầm.

10.- CHÂN THẬT HẠNH: là một danh từ dùng để chỉ cho sự thành tựu Đệ Nhất Nghĩa Đế. Đệ Nhất Nghĩa Đế nghĩa là pháp môn có danh nghĩa chân thật thứ nhất. Đệ Nhất Nghĩa Đế như là lời nói có thể thật hành và điều thật hành có thể diễn đạt, cũng như lời nói và hành động đều dung hợp với nhau, cho đến Sắc và Tâm đều hòa thuận tương đắc lẫn nhau. Đó là ý nghĩa của Đệ Nhất Nghĩa Đế.

Bồ Tát tu Thập Hạnh có bốn mục đích:

a/- Nhàm chán các pháp hữu vi. 

b/- Mong viên thành quả Bồ Đề và hy vọng tròn đầy công đức Phật hạnh.

 c/- Ước mơ cứu độ chúng sinh trong đời hiện tại và đời vị lại. 

d/- Nguyện cầu thật tế là chứng ngộ được pháp Nhất Như Chân Thật của Phật.

Vì bốn lý do nêu trên, Bồ Tát mới phát tâm tu tập các Hạnh. Sự quan hệ như thế nào giữa Bồ Tát và thứ bậc của Thập Hạnh?

Theo Kinh Luận, Thập Hạnh là một trong Tam Hiền, là Tính Chủng Tính trong sáu Chủng Tính (6) cũng gọi là Tư Lương Vị trong năm Ngôi Vị của Bồ Tát.  

Thứ Bảy, 6 tháng 5, 2023



 IV.- THẬP HỒI HƯỚNG VỊ:

Thập Hồi Hướng Vị là một trong 50 ngôi vị tu tập của Bồ Tát. Thập Hồi Hướng Vị là chỉ từ ngôi vị thứ 31 đến ngôi vị thứ 40. Bồ Tát phát khởi tâm Thập Hồi Hướng với chủ ý là dùng tâm đại bi để cứu hộ tất cả chúng sinh. Thập Hồi Hướng Vị gồm có:

1.- CỨU HỘ NHẤT THIẾT CHÚNG SINH LY CHÚNG SINH TƯỚNG HỒI HƯỚNG:nghĩa là hướng về sự xa lìa danh tướng chúng sinh để cứu hộ tất cả chúng sinh. Ý câu này nói Bồ Tát cứu hộ chúng sinh trong hành động vô tướng (trong hành động không phân biệt chấp trước). Bồ Tát ở ngôi vị này là áp dụng phương châm Lục Độ Ba La Mật (7) và Tứ Nhiếp Pháp (8) để cứu hộ tất cả chúng sinh. Bồ Tát thật hành hạnh nguyện cứu hộ chúng sinh trong tinh thần bình đẳng đối với những kẻ thù oán cũng như đối với những người thân thương.

2.- BẤT HOẠI HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về sự không hư hoại. Bồ Tát ở ngôi vị này là không làm mất tín tâm đối với Tam Bảo. Bồ Tát hướng về thiện căn nơi đức tin Tam Bảo để giáo hóa và khiến cho chúng sinh được nhiều thiện lợi.

3.- ĐẲNG NHẤT THIẾT PHẬT HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về những công tác mà chư Phật trong ba đời đã làm. Bồ Tát ở ngôi vị này là theo gương hành động của chư Phật trong ba đời bằng cách không nhiễm trước sinh tử và không rời Bồ Đề một bước để tu tập.

4.- CHÍ NHẤT THIẾT XỨ HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về khắp tất cả chỗ. Bồ Tát ở ngôi vị này là đem bao nhiêu thiện căn đã tu tập được hướng về khắp tất cả Tam Bảo và đến tất cả chúng sinh để cúng dường những lợi ích.

5.- VÔ TẬN CÔNG ĐỨC TẠNG HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về kho tàng công đức không cùng tận. Bồ Tát ở ngôi vị này là hướng về tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được tùy hỷ đem ra phụng sự Phật Pháp.

6.- TÙY THUẬN BÌNH ĐẲNG THIỆN CĂN HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về thiện căn để tùy thuận một cách bình đẳng. Bồ Tát ở ngôi vị này là vì chư Phật trong mười phương nên hướng về những thiện căn đã tu tập được để bảo vệ chúng sinh một cách bình đẳng và khiến cho tất cả chúng sinh thành tựu kiên cố những thiện căn nói trên.

7.- TUỲ THUẬN ĐẲNG QUÁN NHẤT THIẾT CHÚNG SINH HỒI HƯỚNG: nghĩa là tuỳ thuận hết thảy thiện căn đã tu tập được để hướng về quán chiếu tất cả chúng sinh. Bồ Tát ở ngôi vị này là làm tăng trưởng hết thảy thiện căn để hướng về làm lợi ích cho tất cả chúng sinh.

8.- NHƯ TƯỚNG HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về nơi tướng Chân Như. Bồ Tát ở ngôi vị này là đem những thiện căn đã tu tập được hướng về hòa hợp với tướng Chân Như Phật tính.

9.- VÔ PHƯỢC VÔ TRƯỚC GIẢI THOÁT HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về sự giải thoát không bị trói buộc và không chấp trước. Bồ Tát ở ngôi vị này là không còn bị trói buộc cũng như không còn chấp trước tất cả pháp. Do đó Tâm của các vị đều được giải thoát hoàn toàn. Các vị Bồ Tát nói trên sở dĩ thành tựu những công hạnh vừa kể là nhờ hướng về các thiện pháp để thật hành hạnh nguyện Phổ Hiền, cho nên họ được đầy đủ tất cả hạt giống công đức.

10.- PHÁP GIỚI VÔ LƯỢNG HỒI HƯỚNG: nghĩa là hướng về vô lượng pháp giới. Bồ Tát ở ngôi vị này là đem tất cả thiện căn không cùng tận đã tu tập được hướng về nguyện cầu cho vô lượng thế giới sai biệt đều được hết thảy công đức.

Thập Hồi Hướng trên đây thuộc về Giải Hạnh Trụ, một trong 13 Trụ. Thập Hồi Hướng này chính là Tư Lương Vị, một trong 5 ngôi vị, (Tư Lương Vị, Gia Hạnh Vị, Thông Đạt Vị, Tu Tập Vị và Cứu Cánh Vị). Thập Hồi Hướng này còn là thuộc về Đạo Chủng Tính, một trong 6 Chủng Tính và cũng là một ngôi vị Hiền thứ ba trong Tam Hiền ở trước.  

Thứ Sáu, 5 tháng 5, 2023



 V.- THẬP ĐỊA VỊ:

THẬP ĐỊA VỊ nghĩa là mười địa vị tu tập của Bồ Tát với mục đích giữ gìn Pháp Bảo, nuôi dưỡng Pháp Bảo và khiến cho Pháp Bảo sớm được sinh trưởng để kết thành quả giác ngộ. Thập Địa Vị là kể từ ngôi vị thứ 41 cho đến ngôi vị thứ 50 trong quá trình tu tập hạnh Bồ Tát. Bồ Tát tu tập Thập Địa Vị là bắt đầu bước lên bờ mé Chứng Ngộ, nghĩa là Bồ Tát đã phát sinh được Trí Tuệ Vô Lậu và nhận thấy được Phật Tính chân thật của mình, còn Bồ Tát đả trải qua xong Thập Địa Vị là đã thành tựu được bậc Thánh, tức là tăng trường được Phật Trí để bảo hộ cũng như để giáo dưỡng cho tất cả chúng sinh trong vô lượng thế giới. Thập Địa Vị gồm có:

1.- HOAN HỶ ĐỊA: (Pramudità-Bhùmi) cũng gọi là Cực Hỷ Địa hay là Duyệt Dự Địa. Hoan Hỷ Địa nghĩa là địa vị rất vui mừng (Cực Hỷ), rất an vui (Duyệt dự). Bồ Tát ở ngôi vị này rất vui mừng là đã chứng được Phật Tính cũng như đã giác ngộ được hai nguyên lý Nhân Không và Pháp Không để làm lợi ích cho chúng sinh, nên gọi là Hoan Hỷ Địa.

2.- LY CẤU ĐỊA: (Vimalà-Bhùmi), cũng gọi là Vô Cấu Địa hay là Tịnh Địa. Ly Cấu Địa là địa vị đã thoát ly hẳn bụi nhơ Phiền Não ô nhiễm (Vô Cấu) Tâm Bồ Đề và được hoàn toàn thanh tịnh (Tịnh Địa). Bồ Tát ở ngôi vị này là đã tẩy sạch hết tất cả trần cấu Phiền Não ô nhiễm và giữ Tâm Bồ Đề được hoàn toàn thanh tịnh, nên gọi là Ly Cấu Địa.

3.- PHÁT QUANG ĐỊA: (Prabhàkarì-Bhùi), cũng gọi là Minh Địa, Hữu Quang Địa hay Hưng Quang Địa. Phát Quang Địa nghĩa là địa vị phát sinh Trí Tuệ sáng suốt (Hữu Quang hay Hưng Quang Địa). Bồ Tát ở ngôi vị này là nhờ Đại Thiền Định nên phát sinh được Trí Tuệ sáng suốt mầu nhiệm vô biên, nên gọi là Phát Quang Địa.

4.- DIỄM HUỆ ĐỊA: (Arcismatì-Bhùmi), cũng gọi là Diễm Địa, Tăng Diệu Địa hay Huy Diệu Địa. Diễm Huệ Địa nghĩa là địa vị phát sinh lửa Trí Tuệ (Huy Diệu) tăng thêm sáng suốt (Tăng Diệu). Bồ Tát ở ngôi vị này là phát huy Trí Tuệ tăng thêm sáng suốt lên mãi và phát huy cho đến khi nào lửa Trí Tuệ đó đã đốt sạch hết tất cả phiền não của vô lượng kiếp ở trong tâm Bồ Đề, nên gọi là Diễm Huệ Địa.

5.- NAN THẮNG ĐỊA: (Sudurjayà-Bhùmi), cũng gọi là Cực Nan Thắng Địa. Nan Thắng Địa nghĩa là địa vị này rất khó vượt qua (Cực Nan Thắng). Bồ Tát ở ngôi vị này là đã thành công được những điều khó vượt qua. Hai Trí Tuệ thuộc Chân Đế và Tục Đế thì hoàn toàn trái ngược nhau. Thế mà Bồ Tát đã thắng được một việc rất khó khăn là khiến cho chúng nó hòa hợp với nhau thành một thể, nên gọi là Nan Thắng Địa.

6.- HIỆN TIỀN ĐỊA: (Abhimukhì-Bhùmi), cũng gọi là Hiện Tại Địa, Mục Kiến Địa hay Mục Tiền Địa. Hiện Tiền Địa nghĩa là địa vị hiện ra trước mặt có thể nhìn thấy được (Mục Kiến hay Mục Tiền Địa). Bồ Tát ở ngôi vị này là phải giữ vững Trí Tuệ Hữu Phân Biệt (Trí Tuệ thuộc loại có phân biệt) để soi sáng và phát khởi Trí Tuệ Vô Phân Biệt của Phật (Trí Tuệ thuộc loại không có phân biệt) luôn luôn hiện ra trước mặt một cách rõ ràng, nên gọi là Hiện Tiền Địa.

7.- VIỄN HÀNH ĐỊA: (Dùramgamà-Bhùmi), cũng gọi là Thâm Hành Địa, Thâm Nhập Địa, Thâm Viễn Địa hay Huyền Diệu Địa. Viễn Hành Địa nghĩa là địa vị này đi rất xa, đi một cách sâu xa (Thâm Viễn), thâm nhập vào một nơi rất huyền diệu. Bồ Tát ở ngôi vị này là đã vượt qua khỏi một cách xa thẳm của hai đạo Thế Gian và Xuất Thế Gian và đã đến một nơi Vô Tướng, nghĩa là Bồ Tát không còn bị ràng buộc bởi những hình thức công dụng cũng như tự tại trước những hình tướng tu hành khuôn mẫu nào cả, nên gọi là Viễn Hành Địa.

8.- BẤT ĐỘNG ĐỊA: (Acalà-Bhùmi) nghĩa là địa vị không còn bị chuyển động. Bồ Tát ở ngôi vị này là nhờ vận dụng được Trí Tuệ Vô Phân Biệt một cách liên tục cho nên không bao giờ bị lay chuyển bởi những phiền não cuốn trôi cũng như không bị biến động theo bởi những hình tướng, bởi những công dụng hấp dẫn của thế gian, nên gọi là Bất Động Địa.

9.- THIỆN HUỆ ĐỊA: (Sàdhumatì-Bhùmi), cũng gọi là Thiện Tại Ý Địa hay Thiện Căn Địa. Thiện Huệ Địa nghĩa là địa vị phát khởi Trí Tuệ một cách linh hoạt khéo léo (Thiện Tại Ý). Bồ Tát ở ngôi vị này là nhờ phát chiếu Trí Tuệ một cách vi diệu và tự tại, cho nên đã thành tựu được bốn biện tài vô ngại để độ chúng sinh. Cũng nhờ thành tựu được bốn Biện Tài vô ngại, Bồ Tát thuyết pháp rất lưu loát, nói năng rất khéo léo và linh hoạt. Trong bất cứ trường hợp nào, Bồ Tát thuyết pháp không bao giờ bị vấp ngã, nên gọi là Thiện Huệ Địa.

Bốn biện tài vô ngại nghĩa là bốn tài năng biện thuyết pháp rất lưu loát và thông suốt mà không bị chướng ngại. Bốn Biện Tài vô ngại gồm có:

a/- PHÁP VÔ NGẠI: nghĩa là tất cả pháp đều thông suốt. 

b/- NGHĨA VÔ NGẠI: nghĩa là tất cả nghĩa lý đều sáng tỏ. 

c/- TỪ VÔ NGẠI: nghĩa là trình bày rất mạch lạc và văn pháp rất rõ ràng dễ hiểu. 

d/- NHẠO THUYẾT VÔ NGẠI: nghĩa là thuyết pháp mãi không bao giờ hết ý và hết lời.

10.- PHÁP VÂN ĐỊA: (Dharmameghà-Bhùmi), cũng gọi là Pháp Vũ Địa. Pháp Vân Địa nghĩa là mây pháp che khắp cả muôn loài chúng sinh cũng như mưa Pháp tưới mát cả hằng sa quốc độ (Pháp Vũ). Bồ Tát ở ngôi vị này là đã chứng được Pháp Thân thanh tịnh và dùng Đại Trí kết hợp vô lượng nước công đức tạo thành đám mây Đại Pháp trong sạch che khắp cả vô lượng quốc độ và tươi mát cả muôn loài chúng sinh, nên gọi là Pháp Vân Địa.

Tóm lại, 50 ngôi vị tu tập đã được trình bày ở trên chính là những thứ bậc để định mức giá trị chứng đạo và trách nhiệm độ tha của một vị Bồ Tát. Một hành giả muốn thành một vị Bồ Tát thiệt thụ thì phải trải qua 50 ngôi vị công phu tu tập nói trên để hoàn thành nhiệm vụ là tự độ và độ tha, tự giác và giác tha. Trên con đường tu tập, một vị Bồ Tát phải hoàn thành cho xong từ thứ bậc một, phải bắt đầu từ thấp đến cao. nghĩa là Bồ Tát phải khởi hành từ Nhập Môn của Thập Tín cho đến hoàn thành Thánh Quả của Thập Địa. 50 ngôi vị tu tập của Bồ Tát được chia làm năm thứ bậc:

1/ - THẬP TÍN: là thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Nhập Môn. 

2/ - THẬP TRỤ, THẬP HẠNH, THẬP HỒI HƯỚNG: 30 ngôi vị này là thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Tam Hiền. 

3/ - THẬP ĐỊA:  là thuộc về thứ bậc của Bồ Tát Thánh Nhân.  

Đây là thứ bậc thấp cao qua quá trình tu chứng của 50 ngôi vị Bồ Tát. 

Nguyện cho tất cả chúng sinh đều phát tâm tu Bồ tát đạo, hành Bồ tát hành, đồng thành Bồ đề quả.

Na mô Bản sư Thích Ca mâu ni Phật!

Thứ Ba, 4 tháng 4, 2023

Đức Phật

 

Đức Phật với Phật giáo
Trước hết nói về mục đích của Phật giáo. Nói về Phật giáo là nói gộp của Phật pháp và Phật đạo.
- Phật pháp diễn đạt tánh-tướng giác ngộ của Phật.
- Ðạo Phật cung cấp những chỉ dẫn tu tập về thân và tâm để đến được với bản Tính và tự do, cũng là nghĩa của giải thoát, vượt qua những phiền não cảm nhận từ một cái ngã như huyễn.
Phát huy trí tuệ và tỉnh thức đối với bản tính tức Phật pháp. Ðến được với thực chứng trong ta và sống tùy thuận thực tại tức Phật đạo.
Ðây là một bảng chỉ đường thâm sâu làm thế nào để viên dung hai mặt của Phật giáo -tức Phật pháp và Phật đạo.
Cụ thể Phật giáo có 4 mục đích như sau:
1- Làm cho chúng sinh nhận rõ Phật tính, ( nghĩa là biết mình cũng có tính thanh tịnh sáng suốt như Phật ), từ đó tinh tiến tu hành để tự giải thoát
2- Chỉ rõ cho chúng sinh nhận thức rõ các pháp hữu vi là vô- thường, khổ không, vô ngã, bất tịnh.
3- Phát tâm Bồ- đề, tu hạnh Bồ tát, độ thoát chúng sinh.
4-Vui sống với Chân - Thường, Chân - lạc, chân- ngã, chân- tịnh.
Đối với đạo Phật: vào phải có TÍN, vượt qua phải có TRÍ.
Tín là chính tín là tin theo lẽ phải theo chính lý. Nghĩ là tin chắc Phật là bậc giác ngộ toàn giác, lời Phật dạy là con đường giúp mình thấy và sống được với chân lý.
Có tin mới yên tâm thực hành thể thành đạo quả.
Trí là nói về Trí Bát nhã, là trí tuệ nhận thấy thực tướng, thực tính của vạn vật, đó là cái thấy bình đẳng vô phân biệt.
Ví dụ gặp người kém mình không khinh, gặp người giàu có mình không lụy thì đó là biểu biện của người sống với tâm trí Bát nhã.
Từ đó khởi ra tâm từ bi, là giúp người kém được như mình ( là hạnh Bố thí) , học hỏi người hơn mình để tương lai mình được như họ là hạnh Tinh- tiến.
Hiểu và sống như vậy thì tâm không còn phiền não chi phối cuộc sống. Gặp khó thì an nhiên đối mặt để chuyển hóa, gặp thuận lợi thì tiến lên mà không bị cái bản ngã là cái tôi tối tăm chi phối.
Bố- thí, Tinh tiến là hai trong Lục độ ba la mật, là hạnh tu hành của một người từ sơ phát tâm Bồ đề đến khi thành Phật đạo.
Tiến trình đó là Phát Bồ đề tâm- tu Bồ tát đạo - hành Bồ tát hành để thành Bồ để quả. Lục độ thuộc Bồ tát đạo gồm: Bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tiến, thiền định, Bát nhã.
3 cái đầu là Chân lý là diệu dụng của bản lai diện mục. Điều thứ 4 là con đường thể nhập Chân lý.
Phần 2: Đức Phật
Người tu hành quan trọng nhất là phải hiểu Phật. Đức Phật có dạy rằng: " nếu tin ta mà không hiểu ta, thì là phỉ báng ta". Vậy Phật là gì? Cần phải hiểu cho tường minh, nếu ko sẽ nhầm lẫn với các thánh nhân của các đạo giáo khác.
Cụ thể, Phật có ba đức như sau:
1- Đoạn đức: Tức là diệt sạch tất cả những hiện trạng phát hiện ra ngoài, và những động lực tiềm tàng bề trong, của các phiền não tham, sân, si ba thứ độc căn, ( tam độc ) gây ra tham tàn, giết chóc và manh động.
2- Trí đức: Tức giác ngộ một cách cùng tột tất cả các hiện tượng riêng biệt và những đặc tính tương qua hiện hữu, tính, tướng, dụng không mặt nào không chứng ngộ, tức thể nghiệm được tính cách của vạn hữu, biết rõ được biến thái của hiện tượng, và hoạt dụng được năng lực của các pháp.
3-  Ân đức: Tức cứu độ một cách bình đẳng tuyệt đối và phổ biến tất cả các loài chúng sinh, làm cho chuyển mê thành ngộ, bỏ ác làm lành để hết khổ được vui.

Đó là 3 đức để cấu tạo nên một đức Phật, một vị “hoàn nhân”. Nhưng ba đức như vậy cũng chỉ là biểu hiện toàn thể của Phật tính mà ai cũng vốn có, khả năng ấy, như đức Phật đã xác định, nó có 3 phần:
1) Đức DŨNG, tức năng lực thực hiện đoạn đức, nói cách khác đoạn đức là biểu hiện của đức dũng
2)Đức TRÍ, tức năng lực thực hiện trí đức
3) Đức BI, tức năng lực thực hiện ân đức, nói một cách khác, ân đức là sự biểu hiện cụ thể của đức Bi.
Bi trí dũng là thành phần của Phật tính, đức Phật đã phát huy đầy đủ Phật tính ấy nên được đạt đến địa vị Phật-đà.
Thơ rằng:
Có Không vô trược thể Giác-Viên
Bản thể Chân-Như ấy quán Thiền
Diệu-dụng Bồ-đề là đắc đạo
Thập Ba-la-mật độ nhân thiên.
( Hậu học Quảng Kiến )

Thứ Năm, 30 tháng 3, 2023

Nhẫn trong Phật giáo

 NHẪN

Phật giáo chia có hai thứ nhẫn: Sinh nhẫn và pháp nhẫn.

Bàn về Sinh nhẫn:

-          Một là đối với Tam Bảo, cha mẹ cung kính phụng dưỡng, không sanh lòng mỏi chán, sơ suất;

-          Hai là bị người đánh đập chửi mắng, không giận mà cũng không oán.

Bàn về Pháp nhẫn:

-          Quan trọng là “phi tâm“ (không để ý) nghĩa là nhịn chịu sự nóng rét, mưa gió, đói khát, ốm đau, già chết; thứ nhì “tâm pháp" (những cái biến hiện trong tâm), nghĩa là nhịn chịu những nỗi giận hờn, ưu sầu dâm dục. Tóm Lại mà nói, không luận việc nào, đều nên nhịn nhục, huống chi việc xa lìa cảnh giới sanh tử, phiền não do ba độc gây ra để sang bờ Giác ngộ (mà chẳng nhịn nhục sao?) Nếu không nhẫn được, ắt phải nổi nóng. Vậy thì nhẫn là để đối trị tánh nóng nảy.

-          Như vậy, về tâm, về thân hạnh NHẪN là để được an. An Nhẫn là một trong lục Ba la mật của Bồ tát đạo.

Thứ Ba, 13 tháng 12, 2022

Vô Vi



Bàn Luận về Vô- Vi

Ngày chủ nhật thưởng trà ngắm mưa Huế. Lần mò Facebook, thấy trích dẫn từ một học giả, nói về khái niệm Vô vi của Đạo Lão và Đạo Phật, rảnh rang mạn đàm về Vô vi.

Trước tiên bàn về câu:

“Tướng tuỳ tâm sinh
Tướng tuỳ tâm diệt”

Câu này nói về cái tướng dù sinh ra có xấu, nhưng nếu sống với tâm tốt thì cái tướng dần dần sẽ tốt lên, từ tướng xấu sẽ thành tướng hiền lương, thành tướng phúc hậu ưa nhìn thì gọi là tướng đẹp sinh ra. Ngược lại nếu sinh ra có tướng đẹp nhưng sống hàng ngày với tâm xấu ác thì cái tướng xấu lén lút hèn nhược của mắt do tâm làm ác lo sợ người ta phát hiện, rồi tướng gầy yếu do tâm bủn xỉn hay thác loạn tạo ra. đó là tướng đẹp do tâm xấu mà bị diệt mất cái đẹp.

              Câu nói: “Tướng tuỳ tâm sinh, Tướng tuỳ tâm diệt” là kiểu nói tắt, vì sự nói tắt nhiều khi làm cho người ta khó hiểu, dẫn tới dễ bị hiểu nhầm. Ví dụ, khái niệm Vô vi của đạo Lão và Vô vi hay nói đến trong sách Phật vốn có ý nghĩa hoàn toàn khác nhau, xưa nay có nhiều học giả đã nhầm lẫn điều này. Khái niệm Vô vi mà Cụ Lão Tử nói là cái “Vô vi nhi bất vi” đơn giản là không làm cái này để cái kia không xảy ra, cụ thể nếu quan không tham thì dân không nổi loạn, khuyên dân không phạm tội ác thì không phải làm nhà tù.... Điều này về mặt hoạt dụng thì giống với cách giữ giới của Đạo Phật, về mặt bản chất thì khác, Đạo Phật coi vạn pháp bình đẳng nên làm ác sẽ bị quả báo ác đó là luật nhân-quả. Còn Đạo lão thì coi đó là thuận tự nhiên, cái giới hạn ở đây đạo Lão coi tự nhiên là “hành vô vi chi Đạo” nghĩa là tin rằng có một quyền năng lớn bao trùm thế giới đó là Đạo, đây là nguyên lý “hữu thần” trong hầu hết giáo lý của các tôn giáo ngoại trừ Đạo Phật. Phật chỉ ra có nhiều thế giới thần linh nhưng tất cả đều chịu chi phối bởi luật nhân quả. Các cảnh giới khác nhau do tâm thiện ác tạo thành. Thần hay Thiên là do tu tâm thiện mà thành.

              Sống theo “hành vô vi chi Đạo” của Đạo Lão là không làm cái không nên làm. Khi nói về “Vô vi” thì đối lại là “hữu vi”, nghĩa là cái có-làm của Đạo Nho, cốt lõi của nho học là sống phải (hữu) có nhân-lễ-nghĩa-trí-tín. Ngũ - thường đó cùng với Tam-cương để duy trì trật tự xã hội. Cái vô-vi và hữu-vi này đều bị giới hạn bởi chính nó, như cái “sống” bị giới hạn bởi cái “chết”, cái “vui” bị giới hạn bởi cái “buồn” …

              Vô-vi của Đạo Phật khác hẳn cái vô-vi bị giới hạn của đạo Lão. Việc sống ẩn dật của những người tu theo đạo Lão, không làm việc này để tránh không bị điều cái kia là tốt, nhưng kém ở chỗ chấp vào số Ông Trời. 

              Vô-vi của Đạo Phật nói đến cái không có năng sở đối đãi, đó là cái không bị giới hạn bởi phạm vi có-không, dài-ngắn, cao-thấp, rộng-hẹp, sinh-diệt, phiền não-giải thoát. Có nghĩa Vô-vi của nhà Phật là thoát khỏi cái phạm vi đối đãi của chúng sinh. Sống cùng chúng sinh mà không nhiễm ô cái đối đãi là hơn-kém, buồn-vui, sướng-khổ của chúng sinh, để dạy bảo cho chúng sinh thoát khỏi cái nhiễm ô do chúng sinh tự gây ra. Không có năng sở đối đãi mới có bình đẳng, “chúng sinh với Phật trên đồng một từ lực, dưới đồng một bi ngưỡng”. Sống như vậy thì chúng sinh là Phật sẽ thành, thành tựu do tự mình sống và hành động, chứ không phải ôm bom giết người sẽ được lên thiên đàng như các đạo nhân gian xưa và nay nói.

              Thật ra Cụ Lão Tử vỗn nói rất đơn giản, đó là ở đời không nên sống tham chấp vào tiền tài, danh vọng, ăn mặc, ngủ nghỉ mà tự gây ra phiền muộn cho mình. Về nhiều đời sau người ta viết thêm thành ra sai lời Cụ Lão tử rồi xây dựng thành lý thuyết vô vi sai lệch nói ở trên. Như vậy trình độ của cụ Lão tử cũng đã tương đương với các giai đoạn tu hành ban đầu của Đạo Phật là sống không có tạo ác nghiệp để thân tâm được an ổn, rồi theo lời dạy bảo của Phật mà sống và làm việc, dần dần trí tuệ được sáng suốt tiến tới đạt Nhất thiết chủng trí của Phật.

              Phật là chúng sinh đã có tu tâm dưỡng tính để hoàn thiện 3 đức như sau:

1- Đoạn đức: diệt hết phiền não do Tham-Sân-Si là ba thứ gây ra tham tàn, giết chóc và manh động

2- Trí đức: là giác ngộ hiểu biết một cách cùng tột tất cả các hiện tượng riêng biệt và những đặc tính tương quan của vũ trụ vô tận vô biên. Nghĩa là thể nghiệm được tính cách của vạn hữu, biết rõ được biến chuyển của hiện tượng và hoạt dụng được năng lực của vạn vật.

3- Ân đức: Cứu độ một cách bình đẳng tuyệt đối và phổ biết tất cả các loài chúng sinh, làm cho chúng sinh chuyển mê được ngộ, bỏ ác làm lành, hết khổ được vui.

           Như vậy chúng ta là Phật sẽ thành nếu thực hiện dần dần 3 đức nêu trên đến khi viên mãn. Bằng cách dùng hạnh DŨNG để hành đoạn-đức, dùng hạnh TRÍ để hoàn thiện trí-đức. Dùng hạnh Bi để hoàn thiện Ân-đức. Bi-Trí-Dũng này sẵn có trong mỗi người, cho nên Phật khẳng định ai cũng có thể thành Phật. Đó là đạo lý, là Chân lý của Đạo Phật khác hoàn toàn với các tôn giáo khác.

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2022

CHÙA THIÊN MỤ



Bảy tầng tháp cổ giữa hàng cây
Chuông điểm pháp âm tiếng vọng đầy
Thoang thoảng trầm hương vơi tục lụy
Mơ màng danh vọng chợt tan ngay
Bến xưa thanh tịnh đang chờ đợi
Thuyền lạc chốn nào hãy tới đây
Phật tích chuyển lưu Hương Giang chảy
Bóng chùa Thiên Mụ ẩn trong mây.
.HHQK.

Bình thơ
    Tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ có 7 tầng, mỗi tầng tôn trí thờ một vị Phật. 
Bảy vị Phật gồm: Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu na hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca. 
    Chư Phật từ quá khứ đến hiện tại đều giáo hoá chúng sanh bằng pháp Trung Đạo. Nên thơ viết:
 " Bảy tầng tháp cổ giữa hàng cây”.  Giữa- hàng-cây" là mô tả sự tánh không thiên chấp vào pháp nào dù là tịnh hay nhiễm, dù là hơn hay kém, dù là có hay không, nghĩa là lìa tất cả đối đãi thế gian thế tục. Tất cả đều là phương tiện hoá độ, một niềm bình đẳng dù có vô số nhánh pháp duyên khởi thiện ác trong cõi lục đạo. Đệ nhất nghĩa đế Trung Đạo là nói đến Tôn chỉ tối thượng dù hiện hay ẩn, dù đang thuyết pháp hay tịch tĩnh Niết Bàn. 
    Tuỳ tâm chúng sanh từng thời mà có ít người học hay nhiều người ngộ. Nên thơ viết tiếp " Chuông điểm pháp âm tiếng vọng đầy”. Chuông chùa tượng trưng cho pháp Phật, là pháp vi diệu có năng lực chữa lành. Lời dạy của Phật giúp chúng sanh hiểu được thế giới vô thường, khổ, không ,vô ngã, từ đó vơi đi khổ não phiền muộn bằng cách xoay ác làm lành, cải hoá đời sống hiện tại, không còn mơ mộng cái danh lợi nhất thời, tiến lên loại trừ các nỗi niềm không thực, tự tại với cái có cái không… Hai câu thơ sau nói đến những điều như vậy :
" Thoang thoảng trầm hương vơi tục luỵ.
Mơ màng danh vọng chợt tan ngay ".
    Phật chỉ bày cho chúng sanh về Phật tánh thường trụ, không có thêm ở thánh, không có bớt ở phàm, chỉ vì chúng sanh tham ánh trăng tà mà lạc chốn mê. Nay nghe giáo pháp tỉnh thức “ chuông vọng,", nhận được niềm an vui những khi hành thập Ba la mật, từ hạnh : bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tiến, thiền định, Trí tuệ, Đại Phương tiện, Đại nguyện, Đại Lực, Đại trí. Tu hành theo Thập Ba La Mật như vậy dần sẽ chứng diệt được từng phần giải thoát hương, dù ban đầu mới " thoang thoảng", miễn có lòng tin thì " Bến xưa thanh tịnh đang chờ đợi. Thuyền lạc chốn nào hãy tới đây". 
    Dòng sông vẫn chảy, dòng đời vẫn trôi, chư Phật vì lòng bi nguyện Pháp thân các Ngài vẫn ngự ở nhân gian, không quái ngại độ sanh hết đại kiếp này đến đại kiếp khác từ Phật quá khứ đến Phật hiện tại rồi phú chúc hạnh nguyện lại cho chư Phật tương lai. Dòng chảy Phật pháp không ngừng nghỉ như dòng Hương Giang muôn đời kiếp chưa từng ngừng chảy.
    Tam Bảo hiện tướng trong các ngôi chùa thanh tịnh, ở đó có tăng bảo đêm ngày tu học và phương tiện giáo hoá chúng sanh. Chỉ với chúng sanh nào đã vơi bớt mê mờ ( hữu duyên ) thì mới thấy ánh đạo vàng mà cầu tìm pháp giác ngộ. Nên mới nói
" Phật tích chuyển lưu Hương Giang chảy.
Bóng chùa Thiên Mụ ẩn trong mây".
    Như vậy chúng sanh mê vọng tài sắc thanh thực thuỵ là bị đám mây vô minh che mờ nên không thấy được ngôi Chùa thanh tịnh ngay trong tâm mình, còn nếu nhìn với tâm vọng cầu thì chỉ thấy tướng chùa thấp thoáng ẩn trong mây mờ mà thôi, và mãi không thể tới nơi được.

Chủ Nhật, 7 tháng 8, 2022

KINH KIM CƯƠNG

Kim Cương bộ phá tà

Năng đoạn ngũ-ấm ma

Tà ma từ tâm cả

Năng đoạn tưng-tâm ta


(HhQK)


Đệ nhất nghĩa của Kinh là quan trọng hơn hết vì từ cái hiểu rõ mà thực hành đúng.

Cốt lõi của kinh Kim Cương là nói về 4 cái tướng giả dối:

1 - Thân là tướng giả dối 

2- Tâm là tướng giả dối

3- Ngã là tướng giả dối

4- Pháp là tướng giả dối ( mọi sự mọi vật )

Biết 4 tướng này là giả dối thì cái gì là thật? Đó là sức mạnh vô hình của tâm là thật, khi đã thành Phật cái Tâm này gọi là Như Lai, đắc đạo gọi là Vô thượng chính đẳng chính giác. 

Như vậy Kinh Kim Cương nói đến 4 cái giả và một cái Tâm thật là Như Lai. Như là trước sau vẫn thế không bao giờ thay đổi, Lai là quay lại cõi đời ( lục đạo luân hồi ) để giáo hoá chúng sinh. Quay lại gọi là Lai, trước sau không thay đổi cái tâm chân thật ấy gọi là Như. 

Khi đã đắc đạo rồi thì “ Như lai giả tòng vô sở lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai” nghĩa là tâm chân thật khi đã đắc đạo thành Phật thì không phải đi đâu, không phải về đâu. Đi về của chúng sinh là theo quả báo ( nghiệp lực ), khi đắc đạo thành Phật thì đã hết tất cả các quả báo tốt xấu thì không có ai, nghiệp lực ma quỷ thần thánh nào bắt mình phải đi đến nơi đâu ngoài cái nguyện của mình, đi hay không là do mình quyết định. Dụ như khi còn nợ tiền thì phải đến trả, khi cho người vay mượn thì mình phải đi thu tiền về. Chúng sanh thì nợ nhiều thứ từ tiền, ân, oán, danh dự, nợ tình cảm, nợ tính mạng… nên phải đến rồi đi để trả để lấy trong vòng luân hồi. Cho nên tu hành là mình đừng có nợ ai và cũng đừng bắt ai phải nợ mình. Khi hết nợ thì tâm mới Như Lai.

“Vô sở lai: là không cần có chỗ quay lại, Vô-sở-khứ: là không cần có chỗ đi” gọi là Như Lai

Kinh có nói “ Như Lai chẳng phải Như Lai mới gọi là Như Lai ”. Đấy là cách nói, hình tướng là giả, còn bản chất ( bản thể ) là thật. Chẳng-phải-là là tướng giả dối, gọi-là là thể chất chân thật. 

“Phật bảo Ngài Tu-bồ-đề: Phàm những gì có tướng đều là hư vọng. Nếu thấy các tướng chẳng phải tướng tức thấy Như Lai”, có nghĩa thấy các tướng chẳng-phải-tướng, nghĩa là thấy được tướng giả dối thì nhận diện được cái Tâm chân thật đó là Như Lai.

“ Hàng-phục-tâm” là nhận diện tướng giả dối ( thân-tâm-ngã-pháp )

“ An trụ tâm” là sống với tâm chân thật không-đến- đâu, không-về-đâu là tâm Như Lai. Không bị cảnh thức ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp ) làm cho não loạn.

“ Ưng vô sở trụ, Nhi sinh kỳ tâm” là tâm không theo các tướng giả dối thì Tâm sẽ tự tại đến đi ( tâm Như Lai )

( Hậu học Quảng Kiến )

Còn nữa…