Thứ Sáu, 19 tháng 4, 2019

Kinh 42 Chương

Một số khái niệm trong 42 chương của khế kinh Tứ Thập Nhị Chương

Gọi là khế kinh vì khế có nghĩa là phù hợp, kinh là chân lý đức Phật nói.  
Tất cả lời chư Phật nói trong quá khứ và hiện tại đều nhằm mục đích để cho chúng sinh hiểu ( Giác ), tỉnh được sự mê muội ( Ngộ )
Lời chư Phật nói phù hợp với mọi trình độ từ thấp lên cao của chúng sinh, làm cho chúng sinh căn cứ vào đó để thực hiện nói và nghĩ tự cứu chúng sinh khỏi kiếp luân hồi khổ não. 
Tất cả mọi sự vật có thể nói được, có thể nghĩ được, tiếng Phạm or Phạn ( Shangcri) gọi là Pháp ( Pharma) Các pháp đều có giới hạn riêng của từng pháp gọi là giới. Về thời gian thì có ba thời kỳ ( quá khứ, hiện tại, vị lai )gọi là Thế, cũng gọi là trụ. Về không gian có ba chiều, dàu rộng cao và chéo. 
Theo nhận thức của người Ấn độ cổ thì thế giới là vật thể nhỏ là nơi sinh sống cho các loài. Vũ trụ là khoảng không gian có nhiều thế giới ở bên trong. 
Vì thế giới nhiều vô lượng vô biên, nên vũ trụ cũng rộng lớn vô viên
Vũ trụ là tính Bản-hữu, nghĩa là có sẵn từ rất lâu ở đời quá khứ, vì là bản hữu nên ko có Thượng đế hay Tạo hoá tạo ra, do đó gọi là VÔ THUỶ. Vũ trụ chứa nhiều thế giới lúc thì hiện ra hình tướng vật chất gọi là Hữu-tướng- sắc-pháp, khi các hình tướng này biến thành khí thì gọi là Vô-tướng-sắc-pháp. Thời gian chất khí đọng lại dần dần thành hình đầu tiên gọi là Thành-Kiếp, phát triển vững chắc có nhiều loài chúng sinh ở thì là Trụ-Kiếp. Thời gian một thế giới bắt đầu có sự huỷ hoại, chúng sinh dần bị tiêu diệt gọi là Hoại-Kiếp. Sau đó quay về giai đoạn thể khí gọi là Không-Kiếp. Đó là quy luật Thành-Trụ-Hoại-Không của thế giới cũng là của vật chất ( tướng ). Như vậy Đại thiên thế giới này Không thì đại thiên thế giới khác Thành cho nên nói vũ trụ hay pháp giới là VÔ CHUNG, tức là không có ngày tận thế cuối cùng. 
Có hai loại đại thiên thế giới trong pháp giới hay vũ trụ. 
1- Tịnh độ thế giới = Phật Quốc= Phật Sái= Phật Sát. Trong các khế kinh thường nói tam thiên đại thiên thế giới nghĩa là 1000 triệu thế giới. Một đại thiên thế giới tịnh độ cũng có đủ 1000 triệu thế giới nhỏ. 
Gọi là Tịnh độ vì chỉ có các bậc Đại Giác Ngộ ở đó, thế giới này rất thanh tịnh nên gọi là Tịnh Độ. 
Tịnh độ cũng có nghĩa là trường dạy học của một Đức Phật. Trong pháp giới có vô số Tịnh độ là có vô số Phật. Trường đại học này cũng gọi là Luân Viên Cụ Túc = Mạn đà la = Đạo Tràng ( trong mật giáo thờ Mạn dà la có nghĩa là hướng tâm về tịnh độ của các vị Phật và các vị Viên giác Bồ tát ). 
Chư Phật gọi là tối thượng thánh or Tối thượng thừa. Thánh là sự sáng suốt, viên thông, thông đắc…
Tối thượng thánh là cực điểm cao nhất của Thánh. Vì thế cứu độ chúng sinh được nhiều nhất ví như xe lớn ( đại thừa, chữ Thừa trong tiếng Hán là chở, vì chở ( độ ) được nhiều người nhất nên gọi là Tối thượng Thừa. 
Có ba loại học trò của Đức Phật:
1- Bồ tát tức đại thánh của Đại Thừa
2- Bích Chi = Độc Giác= Duyên Giác là Trung thánh của Trung Thừa
3- A la hán là tiểu thánh của Tiểu Thừa
Bốn bậc thánh này đều ở trong từng đại thiên thế giới Tịnh độ. 
Trong pháp giới vũ trụ có vô lượng vô biên thế giới như thế. 

Ngược lại với Tịnh độ là uế độ. Nghĩa là cái thế giới của những chúng sinh phàm phu ở. Gọi là phàm phu có hai nghĩa:
•  1 là: Có sống chết đau khổ trong các phạm vi thành trụ hoại không của một đại kiếp. Sự đau khổ này gọi là hữu lậu. Có một phạm vi nhỏ nhất định gọi là hữu vi. Những chúng sinh làm được việc thiện ở trong cõi luân hồi sống chết gọi là làm được điều thiện hữu lậu. 
Thượng phẩm thiện hữu lậu là cõi của các Thần. Các thần làm việc quan trọng nhất thì ở trên các cõi gọi là cõi trời. 
Các vị Thần khác cũng ở trên trời nhưng có việc phải cứu giúp cõi người thì gọi là Địa thần, Lâm thần và Thuỷ thần… Chớ hiểu rằng các Thần này ở các chỗ ấy mà mắc lỗi coi thường các thần. 
Trung phẩm thiện hữu lậu là cõi người. 
Hạ phẩm thiện hữu lậu là loài Atula. Nam giới Atula gọi là LA HẦU. Nữ giới Atula gọi là KẾ ĐÔ. Loại Atula sống ở trên trời cùng với các thần gọi là Thiên Atula. Những người hay đánh nhau cãi nhau gọi là Nhân atula. 
Những việc làm lời nói và ý nghĩa làm lợi cho các thần người và Atula và cho chính bản thân các vị đó gọi là Thiện Hữu Lậu hay là thiện trong vòng hữu vi sinh diệt. Ngược lại các việc ác có hại cho đa số Thần người và Atula gọi là ác hữu lậu, ác hữu vi. 
Có 3 cấp ác hữu lậu là:
1) Quỷ: Thượng phẩm ác hữu lậu
2) Súc sinh: Trung phẩm ác hữu lậu
3) Địa ngục: Hạ phẩm ác hữu lậu. 
Ác xuất phát từ 5 việc quan trọng nhất là: Giết hại, Trộm cướp, Tà Dâm, Dối trá, Dùng chất kích thích. 
Đã không giết hại lại phóng sinh gọi là bố thí tính mạng. Đã không trộm cắp lại cho người khác tài sản là bố thí tài sản. Đã không tà dâm lại giữ sự thuỷ chung của vợ chồng, khuyên bảo người khác làm như thế thì là bố thí tình ái. Đã không nói dối lại nói lời thành thật là bố thí tín nhiệm. 
Tiếng Phạn cổ Ấn độ gọi là Da na pa ra vi ta nghĩa là bố thí. ( Bố là rộng rãi và bình đẳng. Thí là cho )

còn tiếp

Quẻ Địa Trạch Lâm

Việt Dịch Thiền Luận 
Quẻ Địa Trạch Lâm

Âm: Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh. Chí vu bát nguyệt hữu hung
Địa Trạch Lâm
Nghĩa: Quẻ Lâm đem lại thành công to lớn bởi nội khí thuộc Thiên Y, sự việc được thuận lợi, thành công lớn. Đến tám tháng sau thì dễ có sự không tốt nếu hành động từ bây giờ đi ngược lại với chính khí của quẻ.
Luận: 
Theo đạo lý thế gian mà nói thì sau khi uốn nắn sửa chữa mọi việc mà hướng đến lợi ích cho mọi người thì được thuận khí Thiên Y mà có sự an ổn từ thân thể đến tinh thần. Cũng là việc sau khi nhận diện và điều chỉnh loại trừ các bất cập và tệ đoan, đạo lý giáo hoá lại được lưu hành. Ngược lại, những tư tưởng, những hành động suy vi không được uốn nắn sửa chữa thì như quẻ dịch gọi là bị nghịch khí, từ khí Thiên-Y biến thành khí Ngũ-Quỷ, hiện tướng trong thì bệnh tật, ngoài bị quấy nhiễu.
Lược dùng Phật pháp, khi thuận theo pháp quán tâm chân chính thì trừ được thiền bệnh, tiến tới cắt đứt các [lậu-hoặc cho nên được “ nguyên và hanh”, nguyên là dần trở về với bản tâm thanh tịnh an lạc, “hanh” là vạn sự đều được thuận duyên. 
Thế gian pháp, Phật pháp nếu thuận theo sự chính mà hành, hạnh chính mà tu thì không có lỗi, không ngại thay đổi. Khí thiên y của quẻ Lâm tiến dần thì 8 tháng sau biến thành quẻ Độn, khi đã có sự thay đổi thì phải biết dừng lại, tránh sự đối kháng tương phản mà thành ra cách “ cực thịnh độn thành suy yếu”.  
Cho nên, theo quẻ Địa Trạch Lâm thì khi thuận không được kiêu ngạo chủ quan, lúc nghèo không được bi quan nản chí. Lại phải thuận theo điều kiện mà tu mà sửa,  như người ốm gặp thầy thuốc giỏi thì hết yếu lại khỏe hơn. Như trẻ nhỏ được dạy dỗ chu đáo thì sẽ lớn thêm về tài đức. Người làm việc thiện lớn lên nữa về đức và tài. Lâm cũng có nghĩa là rừng. Sự lớn lên của nhiều người về tài đức cũng là như nhiều cây hóa thành rừng cây đó gọi là đức lâm, cũng gọi là phúc lâm.
————————
Ghi chú:

1.  Lậu-hoặc: Lậu là tên gọi khác của phiền não (tham, sân, si).  
Lậu là âm Hán, nghĩa thứ nhất là chảy ra. Vì loài hữu tình trong ba cõi, thông qua sáu căn mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý chảy ra phiền não không ngừng, nên gọi là lậu. Nghĩa thứ hai là lưu, là rơi rớt. Vì loài hữu tình do nó mà lưu lại trong ba cõi, không thể giải thoát, nên gọi là lậu. Nghĩa thứ ba là sót mất. Vì do đây mà bỏ mất chánh đạo, nên gọi là lậu. 
Hoặc là mê mờ. Do mê cảnh mà điên đảo sự lý nên gọi là hoặc. Do mê lầm đối với cảnh được nhận biết mà sinh phiền não, nên gọi là lậu hoặc. 
Muốn không phiền não, muốn giải thoát thì phải hàng phục cho được phần lậu hoặc này
2.  Khí Thiên Y: Chủ về sức khỏe tốt, lợi cho phụ nữ, vượng tài lộc, tiêu trừ bệnh, tâm tính ổn định, có giấc ngủ ngon, thường có quý nhân phù trợ, luôn đổi mới. Về hướng xuất thế gian, khí Thiên Y chính là hạnh ban vui cứu khổ.
3.  Khí Ngũ Qu là 5 vấn đề xấu bắt nguồn từ Ngũ căn ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý), bệnh thì ở Ngũ tạng ( tâm, can, tỳ, phế, thận). Nói đầy đủ theo kinh Phật là sự ngăn ngại của Ngũ ấm gồm: sắc, thọ, tưởng, hành, thức.
————————
————————

Apr 18, 2019 at 5:46 PM

Chủ Nhật, 21 tháng 10, 2018

Cánh Nhạn cuộc đời


Khởi tâm:
Ta trở về với con đường hiện hữu
Để lại đi cùng cảnh vô thường
Ta nhấn chìm thời gian trong chớp mắt
Cánh Nhạn xưa có giữ niềm thương?
Hỏi:
Rốt cuộc, cuộc đời của người ta giống như cái gì? 
Đáp: 
Cũng nên nghĩ là giống như một cánh Nnhạn bay qua dòng sông, bóng nhạn in vào lòng nước. Bóng Nhạn và dòng sông trong bước tao ngộ tình cờ: 
Hỏi:
NHẠN QUÁ TRƯỜNG GIANG
ẢNH TRẦM HÀN THUỶ
NHẠN VÔ DI TÍCH CHI Ý
THUỶ VÔ LƯU ẢNH CHI TÂM. 
( Nhạn bay trên không
Bóng in mặt sông
Chim không có ý lưu dấu
Nước chẳng có tâm giữ hình ) 
Một thiền sư Việt Nam trước đây đã nói như vậy. Tao ngộ tình cờ rồi tan rã và biến mất. Đây là đạo lý gì
Đáp:
Cũng nên nghĩ là biếnmất trong cơn nắng chiều mòn mỏi, hay biến mất trong lớp sa mù buổi sáng. Người gặp người không ở trong gang tấc mặt đối mặt. Gặp nhau trong những hẹn ước thiên thu của đỉnh đá trên núi này và một hạt cát trong lòng biển xa xôi kia. Đây cũng là đạo lý tự nhiên: đôi mắt của chúng ta, chỉ có thể mở ra để nhìn theo một chiều hướng duy nhất. Muốn thay đổi chiều hướng thì phải thay đổi cả tư thái và vị thế. Quả thật chúng ta muốn vượt qua những giới hạn cá biệt, để thấy rằng thân thể của mình cũng bao la vô hạn như hư không; thấy cả vũ trụ như thấy quả xoài đang nằm trong tay.
Hỏi:
Những gì cần thấu hiểu về các khái niệm được phân phối trật tự theo qui ước của thế giới cộng đồng. 
Đáp:
Chúng ta có trật tự của ngôn ngữ, trật tự của tâm hành và trật tự của thế giới. Tùy thuận theo qui ước đã định sẵn, chúng phản chiếu lẫn nhau trong thế tương giao vô tận, một động một tĩnh. 
Hỏi:
Động và tĩnh, hiểu thế nào về khái niệm đối đãi trong thế giới chúng sinh. 
Đáp:
Kinh thủ lăng nghiêm Phật thuyết về cái tâm: “ động thì tạo thành thế giới chúng sinh, tĩnh thì hoá thành hư không. 
Hỏi:
Động tĩnh đó như ba hào của Kinh dịch?
Đáp:
Pháp thế gian hay xuất thế gian cũng ở cái tâm phân biệt. Âm và dương biểu trưng cho động và tĩnh, mô tả luật tương sinh của hiện hữu, được phân phối trong ba để thành tám; tám được phân phối trong hai để thành sáu mươi bốn, thành thiên hình vạn trạng, tất cả văn vẻ của trời đất.
“Phương dĩ loại tụ, vật dĩ quần phân”. Nghĩa là gom các khái niệm thành ra loại, còn động thực vật thì phân thành nhóm...là nguyên tắc của kinh dịch, pháp thế gian đó biểu hiện từ tâm ý thức phân biệt. 
Vâng,
thế là vì muốn thấy vì hiểu nên cần có phân tích và phối trí, nhưng cũng muốn sống bằng tất cả tâm tình ẩn khuất của mình, nên ước ao nói bằng những lời không nói của vạn hữu. Tất cả những ước muốn đó được kết tụ lại như ngưng thần chú mục để phóng tầm mắt vào một thế giới tuyệt đối.”
...

( Trích Vấn đáp cùng Đạo sư  - Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng )

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2018

Phong thủy trong kinh doanh


Giới thiệu PHONG THỦY TRONG KINH DOANH
I- Phong thủy văn phòng
Trong phong thủy học chính tông, khái niệm hình-khí rất quan trọng, Hình-khí kết hợp với nhận-thức (Tâm) thì thành ra Thể-chất.  Hình-dáng, hình-tướng tốt đẹp đi liền với công năng (là tính chất ) sẽ tạo ra môi trường phong thủy hoàn hảo. Như vậy, khi xem xét xây dựng, thuê mướn tòa nhà, hay sử dụng một phần diện tích để làm văn phòng, chúng ta cần chú ý các vấn đề sau:
1. Không gian văn phòng vuông vắn là đẹp nhất, dù là toàn bộ công ty hay cho từng riêng các phòng ban. Hình vuông là không gian để không khí lưu thông tuần hoàn thuận lợi nhất, từ đó tác động tốt đến sức khỏe con người. Việc hoạt động kinh doanh trong không gian có hình dáng kỳ quái hoặc thiếu góc sẽ làm cho trường năng lượng phân bô không cân bằng, như vậy sẽ ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần của nhân viên trong công ty. Không gian cần vuông vắn để đạt được "hình-khí" tốt, bởi vì hình vuông thuộc Thổ, tượng trưng cho sự chắc chắn và bền vững, đó là nền tảng tạo ra môi trường thuận lợi cho các chiến lược kinh doanh được thành công.
2. Không gian văn phòng kỵ nhất có hình dáng chữ U, chữ L hoặc chữ G là ý kiến của các nhà phong thủy. Thực ra cái xấu ở đây chính là tầm nhìn và việc bố trí nội thất cho các phòng ban dẫn đến mất nhiều diện tích cho giao thông. Để khắc phục nhược điểm này chúng ta khéo bố trí tường vách ngăn để đón ánh sáng và thông gió tự nhiên hợp lý là được.
3. Phía trước văn phòng cần có không gian thoáng đãng, mục đích là tụ-khí, tụ là tạo ra túi khí trong lành từ môi trường tự nhiên, đủ rộng để đảm bảo cho sự vận động của con người. Diện tích đủ để không tạo ra sự bí bách, ức chế trước cửa ra vào, làm ảnh hưởng đến tâm lý khi làm việc hay thực hiện các giao dịch thương mại dịch vụ.
4. Sảnh đón của toà nhà làm văn phòng hay cửa hàng, đặc biệt phải có mái hiên. Công năng của mái hiên ngoài che mưa che nắng còn có tác dụng dẫn khí lành vào nhà. Nhất thiết mái hiên phải thấp hơn sàn tần trên. Nền mái hiên phải cao hơn đường, tránh luôn tụ nước bẩn tạo ra uế-khí, hãm-khí là những khí xấu cản trở tài-khí đi vào nhà.
5. Vị trí cầu thang bộ và thang máy tối kỵ nằm thẳng với cửa ra vào. Dù là cửa ra vào sảnh hay phòng làm việc. Tốt nhất nên bố trí ở phía bên trái theo hướng người đi vào. Thông thường quán tính của chúng ta là đi từ trái sang phải, việc bố trí như vậy làm cho mọi việc được trật tự, thuận theo tâm-khí để dẫn phát tài-khí. Tránh việc bố trí thang bộ đi xuống tầng dưới ở vùng đối diện sảnh và cửa. Điều này sẽ làm cho vận khí đi xuống ( phạm vào cách cuộc trong phong thủy:" trước mặt là vực thẳm" )

( Phần sau bàn về tiểu cảnh, cây xanh trong văn phòng làm việc )

Thứ Hai, 1 tháng 10, 2018

A đà na thức

Hỏi: 
Khi đã hoàn bị A đà na thức có còn bất giác mà đối 
cực khởi vọng niệm hay không?
Đáp:
Câu hỏi của bạn khá sâu xa về Phật học. Với Phật tử chúng ta, tu Đạo khó nhất là ở cái tâm còn phân biệt, chính là ở cái "danh", cái "tự" cái này đối với cái khái niệm kia. Để rời cái Tâm phân biệt đó Đức Phật dạy các pháp môn để nhận thức được Đệ nhất nghĩa đế tuyệt đối và thấu rõ Trung Đạo. Về quá trình tu hành thì thấu rõ được Tự tính thanh tịnh Tâm, thứ lớp hành theo Bát chính Đạo để được chính Niệm trong từng sát na. Dần tiến lên như vậy là đã loại bỏ đi chủng tử bất thiện, việc huân tập chủng tử thiện lành chính là quá trình để cho thức A Lại Da thành Tàng thức, trở về cái gọi là Bản lai diện mục hay Phật tính, đó cũng là việc nhập một với Pháp giới tính tự tâm. Thành Phật chính là quá trình làm cho Tâm được thanh tịnh và Tướng được thanh tịnh. Cả Tâm và Tướng được viên mãn kết hợp với trí tuệ huyền diệu mầu nhiệm ( đại Bát Nhã ) thì gọi là Đại Pháp Thân. Từ Pháp Thân là chính mình chư Phật tự thụ dụng gọi là Tự thụ dụng thân, Tha thụ dụng thân là thân giáo hoá Bồ Tát. Hai thân thụ dụng này gọi là Báo Thân. Vì là nhân thanh tịnh, duyên thanh tịnh nên quả là Báo thân cũng thanh tịnh. Việc bạn hỏi, là khi đã hoàn bị, A đà na thức có còn bất giác mà đối cực khởi vọng niệm hay không?, điều này là không thể bởi khi đã thuần thiện không còn nhân chủng tử bất thiện thì quả cũng là chính thiện, đây cũng là giải thích cho chữ Định, nghĩa là thuần nhất. Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm ngài A nan cũng đã hỏi Phật về điều này, đức Phật từ bi đã nói với Ông A Nan, ví như vàng khi ở thể quặng còn lẫn tạp chất, khi đã tinh tuyện thành thỏi vàng nguyên chất rồi thì có lý đâu lại trở thành quặng nữa!"
Về vấn đề vọng niệm khởi trong từng sát na còn nhiều hơn thiện niệm. Theo Luận A tỳ Đàm nói một sát na vào khoảng 120 phần của một cái nháy mắt ( Đán Sát Na ), trong khoảng một sát na có tới 900 niệm dấy khởi sinh diệt. Theo môn Pháp-tướng-tông là duy-thức thì có tới 100 pháp ( tâm), trong 52 tâm sở hữu pháp chỉ có 11 thiện tâm pháp... Nói như vậy để biết là chúng ta khi còn phàm phu thì tâm phiền não là vọng niệm từ các thói quen mê lâm từ vô thuỷ khởi phát liên tục qua thân khẩu ý. Việc xuất hiện ở đời của Chư Phật là đại sự nhân duyên, cũng là để chỉ bày cho chúng sinh biết, tu theo lời đức Phật, mà xa rời vọng niệm, phá đi cái ngã chấp tướng và pháp chấp tướng, là Ngã không và Pháp không cho đến phá Câu Không là cái đối đãi vi tế của ngã-tướng và pháp-tướng. Thấy như vậy là Thấy vấn đề ( Khổ đế), hiểu như vậy là Nhận Diện được vấn đề ( Tập đế ), thấy hiểu rồi thì sống theo cái Tâm thanh tịnh là: 
" Chư ác mạc tác
Chúng thiện phụng hành
Tự tịnh kỳ ý
Thị chư Phật giáo"
Thế là Giải quyết được vấn đề ( Diệt đế, Đạo Đế ). Đó là con đường thành Phật chính là con đường trở về với Bản Tâm thanh tịnh là nhập một với Pháp giới Tính của pháp-giới vũ-trụ. ( Vũ là không gian vô cùng, Trụ là thời gian vô tận ) 


Thứ Ba, 20 tháng 2, 2018

Đêm Thiên Trù



Đêm Xuân chùa vọng tiếng chuông ngân
Sóng ánh trăng thanh cảnh sáng ngần
Ngọn cỏ đầu sương bừng tỉnh ngủ
Tháp vương đỉnh bạc chiếu xa gần
Tâm thôi tục lụy: trần không vướng,
Vạn tượng Sum la hiển pháp thân.
Ai rõ Chân-không và Diệu-hữu,
Vô-vi cảnh giới mới thêm phần!

Thứ Ba, 5 tháng 12, 2017

Phong Thủy


Khái niệm và lý luận cơ bản của Phong-Thuỷ-Thất-Đại như sau:
Các trường phái phong thuỷ ứng dụng hiện nay gồm: Loan đầu, Bát trạch, Huyền Không, Tam quái trạch, An thần Sát. Con có học qua hết và thấy các môn đó chỉ can thiệp vào vật, trong khi đó cái dụng của Phong thuỷ nếu đúng phải là an lành, an lạc, phát triển. Đó là kết quả của tâm, không thể dùng vật ( bùa, vật chấn Yểm) là cái hữu hình để đắp đổi cho cái vô hình vô tướng là tâm thức được. Một vấn đề lớn nữa là các môn phong thuỷ truyền thống ưa cái cố định mà quên mất vạn vật vốn theo duyên khởi mà có sinh diệt. Phàm cái gì lay động đều tạo ra PHONG, các vật gom lại liên kết với nhau gọi là TỤ, đức của Thuỷ chính là tụ, mà tụ là Tĩnh. Xét như vậy mới hay Bản chất của phong thuỷ là việc quản lý Động-Tĩnh. Động là Có mà Tĩnh là không. Cái nghĩa Có-Không trong Phật học chính là chất liệu của pháp giới vũ trụ. Địa-Thuỷ-Hoả-Phong-Không-Kiến-Thức, bảy đại này mới là vũ trụ vạn pháp. Địa (gồm:Thổ.Kim.Mộc) kết hợp với Thuỷ và Hoả tạo thành khái niệm Ngũ hành, như vậy các trường phái phong thuỷ xưa chỉ can thiệp được ba trong bảy thành phần của tồn tại. Phần Tâm là Kiến thức, Phong là lay động và Không là sự chuyển hoá mới là Chủ thể, để thông qua ngũ hành ( Đia, thuỷ, hoả) mà thụ dụng cảnh giới an lạc hay bất an. 
Như vậy, hai chữ Phong thuỷ trong  Phong Thuỷ Thất Đại được định nghĩa lại như sau:
-PHONG là Động có hai đức: Loạn là hư đức và linh hoạt là thật đức
-THUỶ là Tĩnh có hai đức: Thật đức là Tích tụ và hãm hiểm là hư đức
Khái niệm Phong thuỷ Thất Đại dựa vào Tâm thức (biệt nghiệp) mà vận cái dụng của tâm, trong thì hành Trì giới, an nhẫn, thiền định. Ngoài thì Cúng dường, Bố thí, phóng sinh...Hình khối màu sắc sắp đặt các thành phần của công trình nhà ở thuận theo công năng, sởthích mà đáp ứng để tạo ra giá trị thích ứng hỗ trợ cho tâm thường được an. Khi tâm an thì có định, định thì trí tuệ phát. Trí là sự tinh anh, tuệ là sự sáng suốt. Cái nhân đó lập tức đi với cái quả thịnh vượng lâu dài, làm tư lương cho nhiều đời tiếp theo.
Triết lý Phật đạo của người tu có pháp Tứ Tất đàn, phàm việc gì tự lợi và lợi tha được thì đều là chính đạo. Pháp Phật trùm khắp, các môn pháp thế gian như phong thuỷ, tử vi, kinh dịch, độn toán chỉ là nương theo một phần nhỏ của lý nhân quả mà huyễn có.
Phong thuỷ Thất Đại nhấn mạnh cho người biết rõ cái lý "vạn pháp duy tâm". Khi Tâm thanh thì vạn sự tốt đẹp sẽ thành. Nếu không thế hôn quân bạo chúa ở trong các long mạch giờ đều còn sống cả!?
...
Thế gian này cái đúng sai đối đãi đều là khái niệm. Chiến lược kinh doanh nếu như không là người dẫn đầu được thì phải sử dụng chiến lược khác biệt. Nếu như hai chiến lược trên đều không có thì phải chọn chiến lược thị trường ngách. Dịch vụ Phong thuỷ Thất Đại chính là dùng phong thuỷ để phá phong thuỷ quan niệm, giúp cho những người hữu duyên biết đến một phần nào về giáo lý Phật đà mà yên tâm sống thiện dù có được hướng hay không được hướng.

Thứ Năm, 19 tháng 10, 2017

TỊNH ĐỘ CHÂN THẬT CỦA CHƯ PHẬT

Phép tu Tịnh Độ

Thường ngày sau mỗi thời hành trì, dù là tụng kinh trì chú hay toạ thiền, chúng tôi thường kết thúc bằng lục hoằng thệ nguyện như sau:
Chúng sinh vô biên thề nguyện độ
Phiền não vô lượng thệ nguyện đoạn
Pháp môn vô lượng thệ nguyện học
Phúc trí vô biên thệ nguyện tu
Như Lai vô số thệ nguyện thị giả
Phật đạo vô thượng thệ nguyện thành.
Pháp môn tu Phật thật là vô lượng, người con Phật đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì phải tinh tiến tu học theo các pháp môn Phật dạy để dần thanh tịnh thân tâm, học rộng để đắc Bát Nhã trí, song song độ mình độ người để cùng giải thoát mọi sự huyễn hư. Cái nhân Tinh tiến nhiều đời nhiều kiếp như thế cái Quả vị lai sẽ hội đủ ba đức của Niết Bàn gồm: đại Pháp thân là thật thể, đại Bát Nhã là thật trí, đại Giải Thoát là thật dụng.
Về phương diện Y Báo, thành Phật chính là biến cõi thế giới của mình thành cõi Tịnh Độ, Tịnh là thanh tịnh không có uế trược, Độ là môi trường phong thuỷ xuất thế gian ( Sở duyên duyên) để hoá độ chúng sinh.
Như vậy, pháp tu Tịnh độ vốn vô lượng, học mấy cũng không tới, suy nghiệm mấy cũng không cùng. Nhân duyên cùng sam học cùng chư vị đạo hữu, Quảng Kiến tôi nay tổng hợp các bài giảng của Ngài Trưởng Giả Tâm Minh Lê Đình Thám mong mỏi chia sẻ kiến thức Phật học, tất cả cùng chiêm nghiệm và ứng dụng giáo lý của Phật, chắn chắn hiện tại sẽ được đôi phần tự chủ mà công đức tu học về sau thật khó thể nghĩ bàn.
Phép tu Tịnh độ vẫn vô biên vô lượng, nhưng ước lượng cũng có thể gồm trong ba cách là: phép tu thật chứng Tịnh Độ, phép tu Tạo thành Tịnh Độ, phép tu vãng sinh Tịnh Độ.
I. Phép tu thật chứng Tịnh độ
Phép tu này cốt để cho người tu hành thiết thật chứng được cảnh giới thanh tịnh.
         Kinh Hoa Nghiêm có câu “ Nhất thế duy tâm tạo”, nghĩa là mọi sư sự vật vật đều do tâm tạo ra. Đạo lý duy tâm rất vi diệu, nhưng trong đời sống bình thường cũng có thể xét nhận rõ ràng. Như trong một cảnh, đồng một việc, người ưa thì thấy đẹp hay ho, người ghét thì thấy xấu xa vụng về, đó là một ví dụ về hoàn cảnh thường tuỳ theo tâm niệm mà thay đổi. Ở giữa đời biết bao nhiêu cảnh làm cho người cười kẻ khóc, người vui mừng kẻ buồn tức; lại người đương vui thì thấy cảnh nào cũng tươi đẹp, người đương lúc buồn thì cảnh nào cũng đeo sầu, vậy là tâm tạo ra rõ ràng. Thế mà chúng ta không rõ lý duy tâm, gặp cảnh ưa thì nghĩ thật đáng ưa mà sinh lòng tham, gặp cảnh mình ghét thì làm ra những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng, làm tổn hại cho mình cho người. Vì chúng ta còn tham chấp như vậy nên trong cảnh giới duy tâm, chúng ta mới phát ra năm điều ham muốn là Ngũ dục. Ngũ dụng là tài, sắc, danh, thực, thuỵ: Tài là ham muốn của cải, sắc là ham muốn sắc đẹp, danh là ham muốn danh tiếng, thực là ham muốn ăn uống, thuỵ là ham muốn ngủ nghỉ. Năm điều đó làm cho chúng ta say mê theo hoàn cảnh, dong ruổi theo hoàn cảnh, không lúc nào được thanh tịnh; mà tâm không thanh tịnh thì cảnh giới cũng hoá thành không thanh tịnh. Vậy người tu hành muốn thật chứng Tịnh độ trước hết cần dứt trừ năm điều ham muốn ấy, lấy sự dứt trừ ấy làm cái hy vọng, cái mục đích của cuộc đời mình, hằng ngày xét rõ cái nguyên nhân và cáu kết quả xấu xa của nó mà chán hẳn đi thì một ngày kia mới được ra khỏi vòng Ngũ dục và được tâm ly dục. Tâm được ly dục thì cảnh giới sẽ hoá ra an vui trong sạch, không còn gì làm cho tâm phải buồn rầu đau đớn nữa. Chừng ấy mới đem tâm ly dục mà tu phép Vô ngã để ra khỏi luân hồi, tu phép Bất nhị để chứng tính Chân như: Tâm càng thanh tịnh chừng nào thì cảnh giới càng thanh tịnh chừng ấy, đó là phép tu hành thật chứng Tịnh độ.

Thứ Ba, 7 tháng 2, 2017

THẤT ĐẠI DUYÊN KHỞI


Mọi sự vật tồn tại đều có lý và sự riêng. Lý là đặc tính cụ thể. Sự là hình tướng cụ thể. Khi hình tướng kết hợp với đặc tính thì gọi là có một thể chất của từng sự vật. Thể chất này tác động qua lại với một hoặc nhiều thể chất khác thì gọi là tác dụng của thể chất đó.

Mỗi một thể chất đều là những nguyên nhân cụ thể nào đó. Các nhân này cùng có trong một thời gian và cùng có trong một không gian thì mới có ý nghĩa phù hợp với các lý tính khác nhau. Lại các nhân này phải liên tục tồn tại thì ý nghĩa đó mới liên tục tồn tại. Lại có sự tác động có lợi nhiều đến các nhân thì các nhân mới phát triển mạnh. Lại có những tác động trái ngược các nhân thì lại làm cho các nhân suy yếu nhanh. Tất cả các sự việc đó gọi là nhân và các điều kiện tác động là duyên đến mức phát triển đầy đủ thì thành ra kết quả. Kết quả này có ảnh hưởng đến mọi kết quả khác thì gọi là báo. Lại có sức mạnh riêng để tồn tại và phát triển riêng thì gọi là Lực. Tác dụng tốt hay xấu thì gọi là Tác. Sau đó tạo ra những nguồn sinh lực mới thì gọi là Bản (nguồn gốc mới) và tạo ra sinh lực khác phụ trợ cho sinh lực này thì gọi là Mạt (cành lá ngọn mầm). Đó chính là tất cả những sự thật (Như Thị) của mọi sự mọi vật hiện tồn tại, đã tồn tại và sẽ tồn tại trong mọi không gian, trong mọi thời gian.
 Lý là đặc tính. Đặc tính chung của tất cả mọi sự vật là tính bất sinh bất diệt đồng thời cũng gọi là tính thường trụ. 
          Tất cả mọi sự vật tuy khác nhau nhiều về hình dáng ( tượng) nhưng quy lại thì chỉ có 7 cái lớn nhất tiêu biểu gọi là 7 đại ( địa, thủy, hỏa, phong ,không ,kiến. thức). Bảy đại này duyên khởi tạo ra Tâm-pháp và Sắc-pháp của vũ trụ pháp giới chúng sinh.
Tâm-pháp gồm Kiến đại Thức đại chính là nội nhân trong câu hữu nhân của mỗi chúng sinh. Sắc-pháp gồm Địa, Thủy, Hỏa, Phong chính là ngoại nhân trong câu hữu nhân của mỗi chúng sinh. Nội  nhân và ngoại nhân này tác động chi phối ảnh hưởng nhau thì đấy chính là nội duyên của mỗi chúng sinh. Tất cả ngoại cảnh tức là thế giới của chúng sinh đang ở bao gồm có các hành tinh, nhật (mặt trời), nguyệt (mặt trăng) chính là ngoại duyên của mỗi chúng sinh. Đây là vũ trụ quan và nhân sinh quan chân chính mà chư Phật đã dạy trong các khế kinh Đại Thừa.
Việc quán tưởng sâu sắc từ hình tướng đến tính chất của bảy đại sẽ giúp hành giả thâm nhập và tỏ ngộ được đức hạnh của chư Phật, cụ thể:
-       Quán Địa đại:
Địa là chất rắn có hình tướng có trọng lượng, có khối lượng chiếm một vị trí nhất định trong không gian, tồn tại một thời gian nhất định trong không gian. Địa là vật có tướng nhưng găp các điều kiện ( duyên) thì biến tướng đi. Ví dụ bị nóng chảy thì thành chất lỏng, tiếp tục nữa thì thành chất hơi khí vô hình. Vậy Địa là có tướng nhưng có lúc biến thành vô tướng. Lúc có tướng gọi là sắc, lúc vô tướng gọi là không. Do đó có thể nói Địa ( Sắc) tức thị không, bất dị không nghĩa là sự có tướng của Địa cũng là sự vô tướng của Địa. ( Tức thị là tức là, Bất dị là không khác)
Đại đại chỉ nơi bao gồm vạn vật, vạn vật lại sinh dưỡng nên chúng sinh. Bởi vậy bản thân đại địa đã bao gồm đủ các đức hạnh bao hàm và sinh dưỡng. Về mặt đức tính, địa đại chỉ nội tâm của chúng sinh, chính là cái tâm Bồ Đề. Tâm Bồ đề bao gồm đức hạnh vô lượng, có thể sinh dưỡng ra mọi phẩm đức, từ đó, giúp chúng ta có thể phát triển vô cùng vô tận các đức tính Phật, đó chính là tác dụng của tâm Bồ Đề. Trí tuệ Đại Viên Kính Trí được biểu hiện bởi Địa đại.
-       Quán Thủy Đại:
Thủy là chất lỏng có hình gặp lạnh là cái duyên thì thành cục nước đá là chất rắn vô hình, gặp nóng thì bốc hơi biến thành vô tướng đó là chất lỏng vô hình. Vậy cũng có thể nói Thủy tức thị không, thủy bất dị không.
Thủy đại tượng trưng cho cái đức thấm nhuần. Cũng như bản tính tự nhiên nếu không được nước pháp Cam Lồ mang trí tuệ và từ bi của Đức Phật tưới tắm chăm chút, thì hạt giống tâm Bồ Đề của chúng ta cũng không thể nảy mầm đâm nhánh. Trí tuệ Bình Đẳng tính biểu hiện bởi Thủy đại.
-       Quán Hỏa Đại:
Hỏa là chất nóng vô hình thì là luồng khí nóng. Chất nóng có hình là ngọn lửa. Vậy cũng có thể nói Hỏa bất dị không, hỏa tức thị không. 
Hỏa đại tượng trưng cho đức thành thục, đồng thời, cũng tượng trưng cho trí tuệ Diệu Quán Sát.
-       Quán Phong Đại:
Phong là sức chuyển động của Địa, Thủy, Hỏa cho nên cũng có thể nói Phong tức thị, bất dị không.
Phong đại tượng trưng cho cái đức của hành vi, duyên khởi và sự giải thoát. Trí tuệ Thành Sở tác tượng trưng bởi Phong Đại.
-       Quán Không đại:
Không là sự không tướng của Địa Thủy Hỏa vậy cũng có thể nói không tức thị, địa thủy hỏa nghĩa là cái không tướng của địa thủy hỏa cũng là cái có tướng của địa thủy hỏa. 
Không đại tượng trưng cho sự dung hòa của bốn đại địa, thủy, hỏa, phong ví như tất cả mọi hành vi của chúng sinh đều phải nượng tựa vào chân lý của Chư Phật (tính không) chính là trí tuệ Pháp giới thể tính.
-       Quán Kiến đại và Thức Đại: Tượng trưng cho sự nhận biết chân thật về mười phương pháp giới.
Năm đại Địa, Thủy, Hỏa, Phong, Không đều có một đặc điểm chung là lúc thì có tướng lúc thì không có tướng. Đó là vòng tròn sinh diệt, cái này có tướng thì cũng có lúc không có tướng. Cái kia cũng tương tự như vậy. Đó là Lý tính của năm đại địa thủy hỏa phong. Cũng gọi là lý tính của sắc pháp. Sắc là có hình tướng, Pháp là có tên gọi. Sắc pháp là năm đại có hình tướng riêng có tên gọi riêng.
Đặc biệt Tâm pháp gồm Kiến đại, nghĩa là tính thấy của mắt cùng với Thức đại là tính nhận biết của tai mắt mũi lưỡi và thân. Hai thành phần này luôn luôn là vô hình vô tướng nhưng lại có sự phân biệt rõ ràng hiểu biết rõ ràng năm đại trước, ghi nhớ không sai năm đại trước. Đó gọi là tâm pháp vô hình. Đã là vô hình thì trước sau đều là vô hình cho nên không có cái vòng tròn sinh diệt lúc thì có hình tướng lúc thì không có hình tướng như năm đại sắc pháp địa thủy hỏa phong. Không sinh diệt thì không đi về đâu cũng không đến chỗ nào đó gọi là bất sinh bất diệt. Cũng không có sự vay ở đâu, phải trả về đâu nên là bất khứ bất lai. Không có sự liên tục về hình tướng nên là bất thường, không có sự gián đoạn về hình tướng nên là bất đoạn. Có thể tác động với nhiều hình tướng khác nhau nên không phải là nhất. Có chung một tính vô tướng nên không phải là nhiều ( bất nhất bất dị).
Đặc tính chung của Bảy đại là nhân quả chuyển biến liên tục. Nhân luôn luôn biến thành quả, khi gặp các duyên tác động. Quả luôn luôn biến thành nhân cũng là khi gặp các duyên tác động. Do đó về lý tính mà nói thì không gì là Nhân hay quả. Nhưng về sự tướng mà nói thì có nhiều loại Nhân Quả khác nhau.
Lý tính bất sinh bất diệt gọi là Lý tính thướng trụ thì luôn luôn có các tác dụng kỳ diệu và hình tướng tốt đẹp rõ ràng. Đó là đặc tính riêng của Lý tính thường trụ:
1.       Bản lai thanh tịnh: Từ nhiều đời trước không có cái nhiễm uế ở bên trong
2.       Bản lai Cụ túc: Từ nhiều đời trước đã là nguồn gốc của mọi sự tướng tốt đẹp
3.       Bản lai bất động: Từ nhiều đời trước bất cứ một sự vật nào cũng không làm mất đi và phá hoại được bản tính này.
4.       Bản lai biến hiện: Từ nhiều đời trước đã biến hiện ra nhiều sự tướng khác nhau
5.       Bản lai thường trụ: Từ nhiều đời trước vốn không phải là do một cái gì sinh ra đó gội là bản hữu. Từ nhiều đời trước bất cứ một sức mạnh nào cũng không thể tiêu diệt được. Không bị sinh ra gọi là bất sinh. Không bị tiêu diệt gọi là bất diệt.
Năm phương diện này của lý tính thường trụ tác động lẫn nhau ở tất cả không gian, ở tất cả mọi thời gian. Không gian thì có 4 chiều: Dài rộng cao chéo. Thời gian thì có 3 thời quá khứ, hiện tại, tương lai. Sự tác động này qua nhiều tầng nhiều lớp khác nhau thì gọi là trùng trùng duyên khởi. Đây cũng là đặc tính của mọi sự vật có những giới hạn riêng biệt khác nhau thì gọi là pháp giới tính trùng trùng duyên khởi.
Tâm của tất cả mọi loài ở tất cả mọi cõi thế giới là một pháp trong vô lượng pháp. Vậy tính của tâm cũng là tính của pháp giới tính. Nghĩa là tính bất sinh bất diệt thường trụ của tâm cũng là pháp giới tính của tất cả mọi sự vật trong pháp giới vũ trụ ( Vũ là không gian vô biên, Trụ là thời gian vô tận ). 
Đặc tính chung của mọi sự vật là Pháp giới tính thường trụ nên gọi là Chân. Đặc tính này trước sau không hề thay đổi hay bị đảo lộn gọi là Như. Với một sự vật cụ thể thì Chân Như là bản thể của sự vật đó. Với tất cả các sự vật thì Chân Như là bản thể của tất cả các sự vật (cũng có nghĩa là hình tướng và Lý tính của tất cả các sự vật).
Chân Như là bản thể. Bản thể này không có một hình tướng riêng biệt nhưng lại duyên khởi ra nhiều hình tướng riêng biệt. Lại là vô tướng nhưng biến hiện ra nhiều hình tướng khác nhau cho nên gọi là Chân không. Các hình tướng khác nhau được Chân-không biến ra gọi là Diệu-hữu.
Vạn pháp bản lai chẳng có không
Có chăng thế tục nợ đèo bồng
Không là không tướng ta cần rõ
Diệu Hữu, Chân Không vốn vẫn đồng.

( Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng - Bài đăng tập san CHùa Hương năm 2017 )


Thứ Hai, 30 tháng 1, 2017

Thiên Địa Nhân năm 2017

Đầu năm mới Đinh Dậu, nhớ lại câu sấm ký của cụ Trạng Trình nói về vận cuộc (Thiên Địa Nhân) từ năm Nhâm Thìn đến năm Kỷ Hợi:
“ …Rồng (2012) vào bể cạn có ai hay…
Rắn ( 2013) mới hai-đầu khó chịu thay
Ngựa (2014) nó ra ngoài chuồng bỏ ngỏ
Dê (2015) kia làm quái phải quay đầu
Khỉ (2016) nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà (2017) kia vỗ cánh xào xạc bay
Chó vàng (2018) vẫy đuôi mừng thánh chúa
Lợn kia (2019) ủn ỉn lên chuồng nằm”

Khái niệm sấm ký là các lời văn hay thơ dự đoán tương lai căn cứ vào môn Chu dịch dựa vào tượng của thiên của địa của nhân sự mà tính quẻ kép để rõ tượng rõ cách cuộc và khí ( xu hướng ). Đó là cách dự đoán việc gần. Đối với các sự việc xa đến hàng trăm năm cần phải có sự tu chứng, nắm được then chốt của nhân-quả, nghĩa là biết nguyên nhân mà rõ được kết quả. Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Phật tử tại gia nghĩa là tu theo giáo lý của chư Phật có pháp danh là Bạch Vân cư sỹ. Sở học của cụ Trạng Trình để lại có nhiều, phần lớn được phổ biến là hệ thống các bài sấm ký, đời sau thấy chứng nghiệm rất đúng. Có chăng ngài đã nắm bắt được, hiểu rõ được cái thời của Thiên, cái lợi của Địa và cái hòa của Nhân!?
Bàn về Thiên Địa Nhân đúng đắn chính là bàn về các mối quan hệ mang tính Nhân Quả. Nói về nhân quả thì vật chất có nhân quả vật chất, tâm thức có nhân quả của tâm thức. Sự và lý này duyên khởi với nhau như-huyễn tạo ra môi trường hoạt động thiên thì biến, địa thì nhân thì đổi. Tu Phật không chấp ở sự mà cũng không bỏ sự, đó là lý “ Vô-chấp, Vô-thủ”. Khi rời cái Có-Không, Giống-Khác, Đến-Đi… thì tâm thường tự tại trong mọi hoàn cảnh đối đãi, dù gặp huyễn sự khó khăn gì cũng vượt qua bởi sẵn có tâm Vô-ngại. Để được như vậy phải thường thanh tịnh, tinh tiến học hiểu sâu sắc và sống theo giáo lý Phật để nhận diện sâu sắc về nỗi khổ niềm đau, xác thực được đâu là hạnh phúc chân thật. Thông qua quy trình sự tri-khổ ( nhận diện khổ đau), đoạn-tập ( nguyên nhân tạo ra nỗi khổ niềm đau ), chứng-diệt ( sống với tâm lạc thân an khi không còn nỗi khổ niềm đau ) và tu-đạo ( hành theo 37 Phẩm trợ đạo… ).
 Vạn vật trong vũ trụ từ vật chất ( có hình) đến tâm linh ( vô hình ) đều tuân theo quy luật Thành-Trụ-Hoại-Không. Mỗi mỗi yếu tố duyên khởi lẫn nhau, kết lại gọi là thành, tồn tại một khoảng thời gian là Trụ, biến đổi khi có yếu tố khác can thiệp hay chịu sự thay đổi của các thành phần nội bộ là Hoại, quá trình tan rã làm yếu tốt cho cái mới hay kết nạp thêm yếu tố ngoài để tạo ra Vật mới hay khái niệm mới gọi là Không. Chỉ có người thâm nhập sâu vào lý Nhân Quả và hằng sống trong tỉnh thức sẽ tỏ được cái kết QUẢ khi nắm bắt và nhận diện được nguồn gốc ( NHÂN ) thông qua môi trường ( DUYÊN ).
Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác”. Nói lên tính tương tức của tiến trình từ pháp thế gian tiến lên pháp xuất thế gian. Trên con đường tu hành từ Tự-lợi ( cho mình ) đến Lợi-tha ( giúp người ), chúng tôi theo pháp Vị-nhân-Tất-Đàn, nhân duyên đầu năm mới 2017 mà đưa khái niệm Tam Tài để mạn đàm về  Thời cuộc ( Thiên Văn) về Môi trường hoạt động ( Địa lý ) và xu thế tư tưởng ( Nhân sự ).
Nói về nhân duyên năm Đinh Dậu, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “…Gà kia vỗ cánh xào xạc bay…”. Để bàn về đại vận quốc gia theo câu sấm này chúng tôi sẽ chia sẻ ở bài viết sau. Nay dựa theo môn khoa học thế gian là Chu Dịch để nói về Thiên thời địa lợi nhân hoà năm 2017:
THIÊN VĂN năm Đinh Dậu theo Nhị thập bát tú thuộc sao Lâu Kim Cẩu quẻ Càn, dương Kim. Ý là năm nay thiên nhiều về đức của quẻ Càn là sự mạnh mẽ . Ngũ hành Kim thuộc võ cách nên cũng là dự báo có nhiều sự khởi đầu lớn mạnh, các đại dự án lớn bắt đầu triển khai chế tài và các văn bản mới được ký kết làm nền tảng cho sự thay đổi mạnh về mọi mặt. Về mặt thời tiết năm 2017, mưa lũ nhiều. 
ĐỊA LÝ năm Đinh Dậu thuộc quẻ Càn Kim, nghĩa là năm nay môi trường hoạt động chung có được sự Phát triển mạnh. Giao dịch thương mại có nhiều cơ hội thực hiện. Vùng địa lý để phát triển BĐS thuộc về khu vực phía Đông, Tây Nam và Tây Bắc…
NHÂN SỰ năm Đinh Dậu theo ngũ hành là Hoả Trạch Khuê, nghĩa là chia lìa lý tán. Ứng với câu sấm ký của cụ Trạng Trình " ...gà kia vỗ cánh xào xạc bay. Tuy nhiên Hoả có đức sáng Đoài có đức vui, như vậy đối với người mà luôn sáng suốt, mang lại niềm vui thì lại tốt như việc xông dầu thơm, dù mình không được trực tiếp thì cũng hưởng lại phần lớn sự thơm tho tốt lành vậy. 

Như vậy năm Đinh Dậu theo Thiên Địa Nhân đối với dụng sự chúng ta cần năng làm việc thiện tích phúc đức để tương ứng với cách Thiên văn mà được quẻ dương Mộc đầy đủ Phúc - Lộc - Thọ.  Mọi việc thuận theo chính lý là luôn linh động, tinh tiến cố gắng để vượt qua khó khăn ban đầu thì về sau mọi việc đều được tốt đẹp. Đó là cách cục của quẻ kép Hoả Trạch Khuê xét chung cho cả Thiên Địa Nhân của năm Đinh Dậu 2017.

Thứ Hai, 4 tháng 7, 2016

Tham luận định hướng kiến trúc Phật giáo VIệt Nam

Văn hóa Phật giáo Việt Nam thống nhất trong đa dạng
------------------
Bài tham luận:
ĐỊNH HƯỚNG QUY HOẠCH THIẾT KẾ KIẾN TRÚC CHÙA VIỆT THEO NGUYÊN LÝ TỪ TƯỚNG TỚI TÍNH
(Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng)

Bàn về quy trình thiết kế, quy hoạch kiến trúc chùa Việt, là nói đến việc định hướng để giải quyết vấn đề trùng tu, xây dựng từ đúng đến đẹp. Đúng ở đây là Nhân, Đẹp là Quả. Nguyên lý Từ đúng đến đẹp xuyên suốt quá trình tôn tạo xây dựng chùa Việt là cốt lõi của bài tham luận này. 
Trước tiên giải thích đề mục: 
Định hướng - quy hoạch thiết kế kiến trúc - chùa Việt - theo nguyên lý - từ Tướng – tới Tính.
1- Về khái niệm “Định hướng”: giới hạn ở bài tham luận này chỉ nêu lên ý niệm về nguyên lý thiết lập đạo tràng tu học chân chính, Sở-duyên-duyên này là môi trường hỗ trợ cho chúng sinh tu Phật. 
2- Về vấn đề quy hoạch thiết kế kiến trúc: tham luận nêu lên quy trình để vật chất hóa ý niệm về không gian kiến trúc chùa Việt đương đại, đúng và đủ theo bố cục của thất đường Già Lam.
3- Bản sắc chùa việt: Tổng quan ý tưởng thiết kế chung các loại hình kiến trúc chùa Việt nam, từ chùa đồng bằng, chùa núi đến chùa phố…
4- Khái niệm "theo" là Phương tiện, cụ thể theo tứ tất đàn
- Vị nhân tất đàn: căn cứ vào căn cơ, thói quen và niềm tin của mọi người mà lựa chọn mô hình kiến trúc phù hợp.
- Thế giới tất đàn: thuận theo văn hóa địa lý, thiên văn thời tiết và môi trường địa chính trị xã hội mà thiết lập quy mô, nội dung sai biệt.
-  Đối trị tất đàn: Thuận theo hư huyễn mà lập
- Đệ nhất nghĩa đế tất đàn : Theo tướng để ly tướng, đạt được nhận thức căn bản về sự giác ngộ.
5- Nguyên lý: Bài tham luận này lập theo pháp Nhân Minh. Lập Tông là nói đến trạng thái, cảnh giới Giác ngộ của Chư Phật, Tổ. Lập Nhân là nói đến Bản tâm vốn đầy đủ không thừa không thiếu. Chúng sinh chỉ có thừa là do tam độc Tham-Sân-Si. Lập Dụ là việc thiết kế quy hoạch cảnh Chùa Việt làm duyên cho chúng sinh nhật thức được thực tại Chân Lý. 
6- Khái niệm " từ tướng đến tính". Thông qua phương tiện chọn đất, xem ngày, đến quy hoạch thiết kế và xây dựng cảnh chùa,... mục tiêu ở chỗ dẫn dụ, quy tụ tâm thức, cùng nhau hướng tới đạo quả giải thoát. Cụ thể: Từ Tướng là chuỗi quy trình quy hoạch xây dựng Chùa Việt, phát xuất bởi ý niệm thiết lập đạo tràng để tự-lợi, lợi-tha của chư Thầy-Tổ. --> Tâm tướng là hiện tướng cảnh chùa phải là hình sắc mô tả cái<--> Hữu chân thật ( Như Huyễn ) của Tính chân thường trụ.

Nay luận rõ về Định hướng quy hoạch kiến trúc chùa Việt đương đại theo nguyên lý từ Tướng tới Tính, như sau:
Dẫn nhập:
Giải pháp quy hoạch công trình kiến trúc, dù là thế gian hay xuất thế gian chính là sự kết hợp giữa nghệ thuật và kỹ thuật. Nghệ-thuật sáng tạo ra hình khối không gian còn kỹ-thuật  vật chất hoá những sáng tạo đó.
Pháp xuất thế gian có câu “ Bồ tát sợ nhân, chúng sinh sợ quả”. Quán chiếu điều này tới định hướng kiến trúc chùa Việt chính là việc tư duy cái Nhân, cái đúng trước, sau đó mới đến cái Đẹp tất yếu là Quả sau. 
Phần tham luận sau đây chúng tôi mạnh dạn giới thiệu khái niệm:  Định hướng - quy hoạch thiết kế kiến trúc - chùa Việt - theo nguyên lý - từ Tướng – tới Tính. Ngõ hầu giúp cho việc định hướng thiết kế có được ý tưởng tổng quát, hỗ trợ việc xây dựng chùa Việt đạt được tiêu chí đúng và đẹp, làm duyên giúp con người thông qua “Tướng” là cảnh chùa, trải nghiệm để nắm bắt “ Tác-Dụng”, rồi từ đó mà thông tỏ “ Thể tính” thì cũng là cách phổ quát và phát triển thêm nữa bản hoài của chư Thầy Tổ từ xưa đến nay trong việc tôn tạo cảnh chùa, xây dựng đạo tràng, làm phương tiện để dẫn dắt chúng ta trên con đường tu đạo vô thượng.
Kinh Phật dạy rằng:“Vạn Pháp do Tâm tạo, vạn vật đều tuân theo quy luật thành - trụ - hoại - không hoặc có hình hoặc không hình đều hội đủ cả Tướng Tính Thể Dụng.”
Khái niệm «Thể-Dụng-Tướng-Tính» này là chư pháp thật tướng trong kinh Pháp Hoa, nói về vạn hữu trong pháp giới đều có hình TƯỚNG kết hợp với TÍNH chất thành ra THỂ. Thể có ảnh hưởng tạo ra tác dụng là DỤNG, Dụng này có sự tương tác ra xung quanh là TÁC. Tác có lực nhất định gọi là LỰC. Lực này tạo ra kết quả là QUẢ. Quả có cái đối ứng lại gọi là BÁO. Tất cả có sự kết hợp như vậy gọi là DUYÊN. Duyên nào cũng có nguyên nhân là NHÂN. Nhân đều có nguồn gốc là BẢN. Tất cả đều có duyên khởi trùng trùng gọi là MẠT ( cành lá rễ...). Phần thập như thị ( TƯỚNG, TÍNH, THỂ, TÁC, LỰC, QUẢ, BÁO, NHÂN, DUYÊN, MẠT, BẢN) nói về tính thường trụ của vạn pháp, gọi là "chư pháp thật tướng".
Phần A: Định hướng theo Thập như thị
Quán chiếu theo 10 như thị tới việc xây dựng các hạng mục kiến trúc Chùa Việt điển hình như Tam Bảo, Nhà Tổ, Pháp đường, Tam quan, Trai đường, Tăng xá, Tẩn xứ…Bảy hạng mục chính ( Thất đường già lam) này là hình-tướng kiến trúc làm phương tiện phục vụ cho sự nghiệp hoằng pháp lợi sinh. Dưới góc nhìn « Thập như thị » tư tưởng ứng dụng ý niệm từ hình khối kiến trúc và mỹ thuật Phật giáo vào việc quy hoạch thiết kế Chùa thuộc về phần Tính. Việc xây dựng trang trí nội ngoại thất thuộc phần Tướng. Quá trình hoạt động chung thuộc về Lực-Tác-Quả-Báo-Nhân-Duyên-Mạt-Bản. Cụ thể ứng dụng các thành phần đó vào thiết kế Chùa Việt như sau :
 1. Phần Tính chất (Ý tưởng)
Tính chất của việc quy hoạch thiết kế Chùa chính là ý niệm về việc tạo ra các công trình kiến trúc với không gian cảnh quan trang nghiêm, thể hiện sự tịch mặc, nơi tôn nghiêm, tôn trí hình tượng Phật, Tổ với các điển tích có nội dung giáo hóa để hàng đệ tử và Phật tử thập phương chiêm bái tưởng tới ơn đức hoá độ và công hạnh của chư Phật, Tổ để noi gương trên con đường tu đạo. 
2. Phần hình Tướng
Hình tướng các hạng mục công trình chùa gồm hình khối kiến trúc và hoạ tiết mỹ thuật trang trí. Công trình sau khi hoàn thành phải thể hiện được sự sáng tạo lớn trong việc kết hợp các không gian kiến trúc truyền thống với công nghệ hiện đại trong chế tác và tạo hình mỹ thuật. 
Việc bảo tồn và tuân thủ các giá trị kiến trúc của hệ cột, vì và mái đao truyền thống. Không gian kiến trúc và họa tiết trang trí phải được cân nhắc xử lý hài hoà, giải pháp kết cấu công trình nên ứng dụng cấu trúc nhịp lớn, xử lý kiến trúc cột tạo ra không gian tránh bị vướng tầm nhìn. Đây cũng là  ý niệm để đạt được sự thuần chất và không còn vướng mắc trong đạo pháp.
Về hoạ tiết kiến trúc ngoại thất, công trình nên sử dụng cách tân sáng tạo theo tỷ lệ và màu sắc của kiến trúc cổ Việt Nam. Hoạ tiết mỹ thuật thường được sử dụng trong kiến trúc chùa cổ phần nhiều có ý niệm về các lớp cánh sen nâng đỡ lẫn nhau đương nở rộ. Soi chiếu ngược về thân tâm chúng ta sẽ cảm nhận được nhân quả tương tục trong tiến trình giác ngộ của chính mình.
Về mỹ thuật, trang trí nội thất nên cấu thành từ vật liệu hiện đại, gia công bởi công nghệ siêu chính xác CNC. Ứng dụng này sẽ giúp việc trang trí không còn giới hạn về tạo tác khi thi công nên nội thất công trình Chùa bây giờ chính là không gian truyền thông hay nói đúng hơn việc chiêm ngưỡng và quán tưởng vào hình ảnh của các tích Phật chính là những bài pháp thâm sâu. 
3. Phần Dụng-Lực-Tác-Quả-Báo-Nhân-Duyên-Mạt-Bản
Phần Tính chất kết hợp với hình tướng thành ra Thể. Chùa Việt đương đại phải tạo ra được diện mạo công trình mới mà không mới. Mới ở đây là sự kết hợp sáng tạo Đông-Tây giữa lý tưởng Phật pháp thâm sâu và công nghệ hiện đại. Không mới là sự phù hợp với cảnh quan, đáp ứng và thoả mãn nhu cầu tâm linh của đông đảo quần chúng nói chung và tạo ra đặc trưng theo văn hóa địa phương, theo pháp môn cụ thể, phần này thuộc về Dụng.
Phần B: Định hướng chùa Việt điển hình theo khái niệm từ tướng tới tính
Việc quy hoạch thiết kế và xây dựng cảnh chùa xét về mặt điển hình từ xưa tới nay, thông qua trục chính-đạo, được định vị bởi các công trình từ Tam quan đến Toà tam bảo và Nhà Tổ. Các hạng mục công trình phụ trợ khác tuỳ theo địa hình thế đất mà sắp đặt cho phù hợp. Việc tổ chức như vậy chính là môi trường giúp chúng ta mỗi khi vân tập về chùa có được sự thanh tịnh trang nghiêm toả ra từ hình khối kiến trúc và hoạ tiết trang trí mang đậm bản sắc Phật giáo, Sở-duyên-duyên này là cái duyên môi trường nuôi dưỡng và huân tập thiện pháp. Để rồi từ đó với chính Nhân là Phật tính thường trụ, chúng ta tu dưỡng ngay trong các nỗi khổ niềm đau của mình bằng sự ứng dụng giáo lý Phật đà vào thực tại đời sống, để cho mỗi mỗi hành động, mỗi mỗi ý niệm được thanh tịnh là Quả-Báo chân thật, đó là cội nguồn phát xuất niềm an lạc trong mỗi sát na sự sống, rồi với hạnh Đại thừa chúng ta chia sẻ, dẫn dắt kẻ hậu học để cùng tiến lên trong tương lai gần và làm tư lương cho chuỗi đời vô tận. Việc suy tư đúng và đầu tư đúng bắt đầu từ quá trình định hướng quy hoạch kiến trúc Chùa Việt phải đạt được dụng ý tối hậu chính là phương tiện để tạo ra Lực-Tác-Quả-Báo-Nhân-Duyên-Mạt-Bản như vậy.
Đại Phương Quảng Hoa Nghiêm Kinh, phẩm Nhập pháp giới nói về cảnh Thiện Tài đồng tử vấn đạo vị thiện tri thức ở thành Sư Tử Phất Tấn, trong điện Tỳ Lô Giá Na Tạng. Sau khi phát tâm Bồ đề, được Bồ Tát Văn Thù khuyến tấn trên con đường sam đạo từ các vị thiện tri thức, học Bồ Tát hạnh và tu Bồ tát đạo để thành Bồ đề quả. Ở điện Tỳ Lô Giá Na tạng ngài được Từ Hạnh đồng nữ Bồ tát giới thiệu pháp môn Bát nhã Ba la mật phổ trang nghiêm là sở đắc của Bồ tát từ ba mươi sáu hằng sa chư Phật. Cốt yếu của pháp môn này là mỹ-thuật-hoá-Phật-giáo. Việc quán sát hình ảnh khắp cung điện, từ trần vách, cột… »mỗi tướng mỗi hình đều hiện pháp giới Như Lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ tát thành mãn đại nguyện, đầy đủ công đức, thành Đẳng Chính Giác, chuyển diệu Pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết Bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thấy khắp hư không nhật nguyệt tinh tú… » Do từ công phu quán tưởng ảnh tượng đó mà Bồ Tát tuỳ thuận xu hướng tư duy quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà la ni, trăm vạn vô số môn đà la ni đều hiện tiền.
Như thế mới rõ, việc ứng dụng và Phật hoá mỹ thuật trong việc quy hoạch thiết kế kiến trúc Chùa chính là những bài pháp vô ngôn trợ duyên và giúp chúng ta tu để chứng Phổ môn Đà la ni. Như hình tượng về điện Tỳ Lô Giá Na Tạng trong kinh Pháp Hoa nói lên ý niệm về pháp môn mật thừa với Bản Tôn là Phật Tỳ Lô Giá Na ( Phật Đại Nhật ) mà hình ảnh và các biểu tượng chủng tử tự, ẩn chứa sắc nét trong từng hoạ tiết mỹ thuật kiến trúc.
Tiểu kết:
Từ tướng-tới Tính, là việc quán sát, trải nghiệm từ hình tướng để giác ngộ bản chất của vạn pháp, sự hiện hữu Chân-thật thông qua hình tướng gọi là Diệu-hữu. Tướng thì vô thường, vô-cùng ( gồm cả lớn-bé, đẹp-xấu theo khái niệm phân biệt ), tiến trình tu chứng là quá trình quán niệm tới khi thành thục Thật-tướng, đạt được cái Vô-niệm của Thật tính. Vô-niệm là hết đi các vọng niệm, chỉ còn lại sự chân thật. Thật tướng mà bài tham luận này nói đến là thông qua quá trình hoạt động của con người trong môi trường không gian kiến trúc chùa Việt, với các phương tiện thiện xảo, hiện tướng bởi màu sắc, hình dạng, âm thanh… tác động tới tâm thức, mục đích giáo hoá chúng sinh ( con người ) rời cái ác, bỏ huyễn hư. Nhận rõ cái Chân thật, để từ đó sống cuộc đời hướng Thiện, tiến tới được sự hoàn-Mỹ trong mọi hoàn cảnh, trùm cả thời gian lẫn không gian ( Thời-Không). Đạt được cái đúng Chân là nhân, Thiện là duyên để tiến tới cái đẹp Mỹ là Quả. Từ tướng tới Tinh là quy trình duyên khởi của Chân-Thiện-Mỹ, yếu tố cốt lõi trong các ngôi Chùa Việt từ xưa đến nay và mãi về sau nhất định không được thay đổi.