Thứ Sáu, 29 tháng 5, 2015

Thiên thượng thiên hạ, duy ngã độc tôn

Mạn đàm về " Duy ngã độc tôn" nhân ngày Phật đản.
-----------------------------------------------------------------

Hôm nay, ngày 8 tháng 4 AL, kỷ niệm ngày đức Phật thị hiện đản sinh. Phật tử chúng tôi nhớ nghĩ đến công ơn giáo hoá của vị Đại Đạo Sư, Đức Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật, người thầy của loài người và Chư thiên. Tưởng đến lời dạy đầu tiên của Phật: " Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn", giáo lý vi diệu này Phật thuyết vào thời điểm đản sinh, điều chân lý Ngài muốn dạy bảo chúng sinh thật đều ở trong câu nói này cả. " Trên trời dưới đất, chỉ có Ta là tôn quý hơn cả". 
Phật thị hiện tại cõi Sa Bà cũng vì muốn cho chúng sinh thấy được thế giới huyễn hư khổ não. Sau khi chỉ cho chúng sinh biết được cái khổ ( tri khổ), ngài lại dạy chúng sinh phương pháp để dứt nguyên nhân của khổ đau ( đoạn tập), giúp cho chúng sinh hưởng được sự an vui của việc dứt trừ cái tâm chấp trước Ngã ( cái ta và cái của ta), vui vì lìa được cái tâm chấp Pháp ( thế giới của ta), vui vì đoạn trừ được chấp trước ngã và pháp gọi là chứng Diệt. Tiếp đến ngài dạy cho chúng sinh con đường để có được niềm an vui mãi mãi đó là con đường Bát chính đạo ( con đường trung đạo ).
Việc sống đời với tâm " Duy Ngã độc tôn" ( tu đạo ) sẽ giúp chúng sinh sớm đạt được Niết Bàn quả là nơi hết khổ đau, lìa sinh tử, an vui mãi mãi, đó chính là cái Tuệ nhận rõ Pháp giới vũ trụ đều do tâm thức hoá hiện. Quan niệm cái Ngã dù thế nào cũng chỉ là cái Tâm, do tâm thức mà có, " Duy Ngã" cũng chính là lý " Duy Tâm". Sự sự vật vật đều từ tâm hoá hiện nên tính của vạn hữu là Không Hai là "độc", bản tâm thường thanh tịnh sáng suốt nên là " Tôn". Để cắt nghĩa rõ hơn câu “ duy ngã độc tôn”và vì sao mà nói toàn thể Phật pháp đều ở trong câu nói này, chúng tôi xin phân giải theo phương pháp giáo hoá của Phật như sau:
    Phương pháp giáo hoá chúng sinh của Phật không ngoài bốn món Tứ Tất đàn, bao gồm: Thế giới Tất đàn, Vị Nhân Tất đàn, Đối trị Tất đàn và Đệ nhất nghĩa đế tất đàn.
1. Thế giới Tất đàn, là phương tiện Phật dùng cái tâm phân biệt cái cảnh giới của chúng sinh mà dạy bảo cho biết thế nào là Chân thế nào là Huyễn. Chúng sinh vì ưa cái ta và cái của ta ( ngã ) nên Phật thuận theo tâm chúng sinh mà nói về Vô Ngã để phá cái chấp Ngã.
2. Vị Nhân Tất đàn, là thuyết pháp theo căn cơ cụ thể. Chúng sinh thường có cái tâm phân biệt cao thấp nên Phật ra đời nói thẳng " thượng hay hạ thì Phật vẫn là cao quý hơn cả" để cho chúng sinh biết mà quy kính theo.
     Phật ngoài giáo hoá loài người còn giáo hoá cả chư Thiên. Chư Thiên thường coi loài người là thấp kém về trí tuệ về năng lực. Phật đản sinh thị hiện các điềm lành vi diệu và tuyên bố " Ta là độc tôn" để cho chư Thiên kinh ngạc dõi theo đức hạnh của ngài từ khi sinh đến khi nhập Niết Bàn mà phát tâm tu học theo.
3. Đối trị Tất đàn, là cách thuyết pháp để đối trị lại tâm bệnh của chúng sinh. Thời Phật ra đời đa phần chúng sinh tin vào Phạm Vương tạo ra vũ trụ, Vĩ Nựu là chúa muôn loài. Muốn cho chúng sinh tin rằng Phật không phải do Phạm Vương tạo ra, cũng không phải dưới quyền của Vĩ Nựu nên Phật nói " Thiên thượng thiên hạ, Duy ngã độc tôn", Phật lại biết được về sau có nhiều kẻ ngoại đạo mượn danh Phật mà truyền bá tôn giáo của mình, hoặc nói Phật là do Thượng đế cử xuống làm Giáo chủ, làm cho chúng sinh mang tội huỷ báng Phật. Nên Phật nói " Thiên thượng thiên hạ duy ngã độc tôn" để tuyệt trừ cái điều lợi dụng đó.
4.Đệ Nhất Nghĩa đế Tất đàn, là Phật nói về bản tâm thanh tịnh của chúng sinh mà chúng sinh chưa nhận biết, nhiều đời sống chết luân hồi khổ não, chúng sinh lấy cái phân biệt hoàn cảnh làm tâm mình, lấy cái khối vật chất làm thân mình nên sinh ra các vọng tưởng có chấp, có ngã, có pháp.
    Cái lối chấp trước, Ngã đối với Pháp, Pháp đối với Ngã, ngã đối với phi ngã, pháp đối với phi pháp, đối đãi với nhau mà hiện ra các tướng như huyễn hư hoá, làm cho tâm niệm chúng sinh khi ưa khi ghét, khi mừng khi sợ, tạo các nghiệp mê lầm, chịu các quả mê lầm, chẳng có khi nào được tự tại.  Muốn tự tại thì phải nương theo giáo lý của Phật, nhận rõ toàn thể vũ trụ đều do tâm thức biến hiện, ngoài tâm thức ra không có sự gì vật gì cả. Đó là cái phép Duy Ngã: duy thì không còn ngoại vật, ngã thì chỉ có một tâm. Duy ngã là tuyệt đối trong các đối đãi, là chân như trong các danh tướng; duy ngã chẳng có hai nên là độc; thường thanh tịnh nên gọi là tôn. Đó là cái ý nghĩa của câu “ duy ngã độc tôn” theo thể tính của tự tâm. Còn diệu dụng của tự tâm là chính nơi tuyệt đối mà hiện các đối đãi, chính nơi chân như mà hiện các danh tướng. Tuy hiện ra các đối đãi mà đỗi đãi không ngoài tuyệt đối, tuy hiện các danh tướng mà danh tướng tức là chân như. Diệu dụng ấy ra ngoài cái có cái không, cái mê cái ngộ, thường tuyệt đối chân như mà thường đối đãi danh tướng, thường đối đãi danh tướng mà thường tuyệt đối chân như; không công dụng, không tạo tác mà hoá độ quần sinh; không nhân ngã, không pháp ngã mà tức là chân ngã. Chân ngã ấy bao la trùm khắp, ra ngoài thời gian và không gian, tự tại hoá độ quần sinh, để đầy đủ vô lượng công đức, đã đầy đủ vô lượng công đức càng tự tại hoá độ quần sinh, nghĩ không tới, nói không cùng, nên chỉ gượng gọi là Chân Ngã. Các vị Đại Bồ Tát cũng có Chân Ngã nhưng chưa viên mãn; duy chân ngã của Phật mới hoàn toàn viên mãn; nên cũng duy có Phật mới thật xứng với câu “ duy ngã độc tôn”.
          Ý nghĩa của câu “ Duy ngã độc tôn” sâu xa như vậy nên quyết định là Phật thuyết, chứ không phải do người sau thêm vào. Toàn thể Phật pháp đều gồm trong câu ấy, nên người nhận rõ lý nghĩa câu ấy mà tu hành thì quyết định thành đạo chứng quả.
          Chúng tôi học theo tâm hạnh của người đi trước nay tổng hợp ghi lại bài này nguyện chia sẻ cùng chư đạo hữu, mong mỏi cùng nghiên cứu cho tường tận về nghĩa lý của từng câu Phật dạy rồi đem ra giảng giải cho mọi người thì công đức không thể kể xiết.  

Chủ Nhật, 10 tháng 5, 2015

Bài Tham luận Quốc thái dân an Phật đài

Bài viết:
CHÍNH NHÂN, CHÍNH DUYÊN VÀ NGHIỆP BÁO TỪ VIỆC CÔNG ĐỨC XÂY DỰNG PHẬT ĐÀI TÂY THIÊN

Khởi Luận
Tất cả các pháp theo tâm phân biệt thì có hình tướng của sự vật. Khi tâm phân biệt thay đổi thì hình tướng của sự vật cũng thay đổi. Như vậy thực tế sẽ là bất khả tư nghì ra ngoài đối đãi như sinh diệt, có không, đồng dị, khứ lai. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật Đại Từ Đại Bi thị hiện trên cõi Ta Bà, dùng đủ cả phương tiện Khai Thị Ngộ Nhập, chỉ đường cho chúng sinh thấy được Phật tính của chính mình để thành Phật như Ngài, cho đến nay trải hàng ngàn năm lịch sử, giáo lý của Ngài vẫn ngự khắp cả mười phương, cứu khắp muôn loài.
1- Bàn về CHÍNH NHÂN
Ngày nay, chúng ta nhờ ơn Phật và chư Tổ chỉ dạy mà dần nhận thức đúng với thực tại hiện sinh, phân biệt chân ngụy, diệt vọng trừ niệm, có được sự tự chủ phần nào trong đời sống tâm linh. Quá trình giác ngộ chính là tiến trình trở về với bản tâm thanh tịnh sẵn có. Như nguồn nước vô tận, lại lưu xuất ra các dòng nước mát lành để nuôi dưỡng tâm Bồ đề của chúng sinh, vạn vật. Bốn dòng tịnh thuỷ hữu ích của bản Tâm chính là hạnh Từ Bi Hỷ Xả. Tứ vô lượng tâm này cũng là Sự và cũng là Lý để hoá độ, giúp cho người tu có được con đường mà trở về với cội nguồn “ Bản lai diện mục” là " minh tâm kiến tính". 
Phương tiện có nhiều, chư Phật, chư Tổ thuận theo nhận thức của người đời mà thuyết pháp, khi quyền khi thật, pháp môn thiện xảo đó có khi giúp người thông qua sự tướng, soi xét, suy tư mà thông tỏ Tự-Tính, lại tùy theo căn cơ mà các ngài chỉ thẳng bản Tính của pháp giới ( viên thông ). Chúng sinh tuỳ theo nghiệp lực mà có sự nhận thức khác nhau nên tiến trình giác ngộ cũng theo đó mà sai biệt. Từ xưa đến nay, chư Thầy Tổ không quản gian nan, từ bi hiển bày đủ mọi phương tiện để dẫn dắt đệ tử và kẻ mới học thâm nhập pháp môn giải thoát. Đại phương tiện như vậy mới chính là nội dung đạo lý " tuỳ-duyên" của Sơ tổ Trúc Lâm.  
Xã hội hiện đại phát triển nghiêng về vật chất và khoa học hữu vi. Con người sống dựa nhiều vào công nghệ tiện ích mà đánh mất giá trị tâm hồn ( tâm thức), dẫn đến mất cân bằng trong cuộc sống. Sứ mệnh giáo hoá giúp người giải quyết nỗi khổ niềm đau trở nên trọng đại hơn. Phương tiện hóa độ lại cần phải thiện xảo hơn. 

2- Bàn về CHÍNH DUYÊN
Kinh Kim Cương, Phật thuyết “ ...phàm sở hữu tướng, gia thị hư vọng...”.  Tôn chỉ của thiền Tông là “...bất lập văn tự, ngoại giáo biệt truyền...”. Nghĩa là ly tướng để phá vọng niệm, trở về với tự tính thanh tịnh Tâm. Đây là viên thuốc đặc biệt do Phật và Tổ chế ra nhằm điều trị tận gốc bệnh khổ về sinh diệt của chúng sinh.
Nhân vậy có người hỏi rằng: Tôn chỉ chung của Thiền Tông là Vô tướng, tại sao lại đi tôn tượng Phật lớn là hữu tướng, thế có phạm lỗi tương vi ( trái ngược) pháp chăng?
Đáp rằng:
Ngoài danh hiệu Đại-Y-Vương là dùng thuốc pháp để trị bệnh khổ, đức Phật được tôn xưng là Đại-Đạo-Sư bởi Ngài khéo dùng huyễn để trị huyễn. Giáo lý “Tu cái Vô tu, niệm cái vô niệm, hành cái vô hành...” Nghĩa là dùng chính niệm để trừ vọng niệm, dùng tướng để phá tướng. Cũng là hiện tướng để hóa độ mà không bám chấp, thực hiện tôn tượng mà không tạo tác vọng niệm. Đây là pháp môn vô-tướng đối trị thù thắng và phù hợp với nhận thức thường nghiệm hiện nay của đông đảo người tu Phật.
Kết hợp giữa vô-tướng để tự lợi và hiển-tướng để lợi tha như vậy, Quý Thầy ở Thiền phái Trúc Lâm nói riêng, cùng với Phật tử, thiền sinh trên toàn quốc đã và đang phát tâm, góp công góp của xây dựng và tôn tạo tượng đức Phật Thích Ca Mâu Ni bằng đá hoa cương tại Thiền viện Trúc Lâm Tây Thiên, mục đích xây dựng đạo tràng ( thiền viện) trang nghiêm thanh tịnh, làm Sở duyên duyên là môi trường cho chúng ta hiện thời và con cháu sau này, chiêm bái, kính lễ và tưởng tới đức hạnh của Phật, rồi từ thắng duyên đó mà phát tâm Bồ Đề rộng lớn, noi gương đức Phật tu thiền định, thực hành hạnh ban vui cứu khổ. Người người như vậy, nhà nhà như thế sẽ tạo ra quốc thổ thái bình thịnh vượng, dân chúng an lạc. Quốc – Thái – Dân – An chính là diệu dụng, là mục tiêu của Quý Thầy và sự cần thiết để chúng ta, mỗi người mỗi nhà góp phần, dù lớn dù bé, tùy theo điều kiện, cùng hỗ trợ tác thành đại Phật tượng cao 49 m. Ý niệm đức Phật tọa thiền đạt Đại giác ngộ trong suốt 49 ngày dưới cội Bồ đề thuở xưa được tái hiện chân thực, mang tư tưởng hoằng pháp lợi sinh rộng khắp.
Dự án Phật đài tại Thiền viện Trúc lâm Tây Thiên thành tựu sẽ là nơi hướng tâm và là điểm du lịch tâm linh của thập phương nhân dân trong và ngoài nước. Tượng Phật ngự trên đỉnh núi đá trong khuôn viên Thiền viện Trúc lâm Tây thiên chính là bài pháp Vô-ngôn, “tùng tướng nhập tính”, giúp cho mọi người nương theo hình tướng mà thể nhập với bản tính. Hình tướng cụ thể ở đây mô phỏng 32 tướng tốt với 80 vẻ đẹp của Phật, mang sắc thái gần gũi với người Việt nam, ngoài không gian hình tượng Phật còn có phần tháp mười tầng nằm trong thân tượng, biểu trưng cho thập pháp giới đầy đủ tích Phật với quá trình giác ngộ và phát triển thiền phái Trúc Lâm từ Sơ Tổ Trúc Lâm điều ngự Giác hoàng Trần Nhân Tông. Việc chiêm bái hình tượng và hình ảnh sẽ giúp chúng ta thấu tỏ được nền tảng giáo lý, pháp môn tu để chứng, rồi hằng ngày soi chiếu lại thân tâm, thay đổi nhận thức, điều chỉnh hành vi trong đời sống hiện tại, hướng tới quả vị giải thoát như Phật trong thời tương lai. Nói như vậy mới rõ giá trị hữu hình và vô hình rộng lớn của việc tôn tạo Quốc thái dân an Phật đài.
3- Bàn về NGHIỆP BÁO
Chúng tôi, hàng Phật tử hậu học. Nhờ ơn Quý Thầy giáo hóa bấy lâu, nhận thức rõ về Tứ-trọng-ân mà tinh tiến tu tập. Lại hiểu được nghiệp-duyên sâu dày đã tạo tác từ vô thủy đến nay, có thiện, có ác. Thấu rõ phần nào con đường tu học là việc phá huyễn lập Chân, năng tu thiền định để thanh tịnh thân tâm, thường hành Phật sự để tự lợi, lợi tha ( giúp mình giúp người). Tất cả những việc như vậy về Thân Khẩu Ý mỗi mỗi đều hướng đến thiện nghiệp, làm tư lương cho thời tương lai. 
Con người ta theo lý vô thường của Thất-đại, tuân theo luật Sinh lão bệnh tử. Hoàn diệt theo không gian và thời gian không lường, nhưng công phu tu hành, nghiệp thiện, nghiệp ác theo nghiệp báo từ gieo nhân mà sinh quả có sai khác.  
Cụ thể, người hỏi rằng: ở đời chúng ta có khi làm thiện, có khi làm ác không chừng, vậy về sau theo cái nghiệp báo nào để luân hồi và thọ quả báo?
Đáp rằng:
Về vấn đề này chúng tôi xin lược ghi từ bài giảng trong cuốn Phật học thường thức của Cụ Tâm Minh Lê Đình Thám do Hòa Thượng Pháp Chủ Thích Phổ Tuệ diệu đính và xuất bản như sau:
“Nghiệp báo là nhân quả trong đường luân hồi. Nghiệp là hoạt động về thân thể, về lời nói hay ý nghĩ, và kết quả đền đáp lại những hoạt động ấy, thì gọi là nghiệp báo. Những hoạt động có quả báo rõ ràng, chia làm 3 thứ:
Thiện nghiệp là những việc lành, có lợi cho người và đem lại quả báo tốt cho mình
Ác nghiệp là việc dữ, có hại cho người và đem lại quả báo xấu cho mình.
Bất động nghiệp túc là hành động tu luyện tự tâm, làm cho không lay động trước cảnh ngũ dục, những cảnh khổ vui và những cảnh có hình tướng. Tu luyện như thế gọi là tu thiền định.
Trong một đời, ít ai chỉ làm điều thiện hay chỉ làm điều ác, nên nghiệp báo cũng tùy theo sự tổng hợp ảnh hưởng của các điều thiện, ác đã làm. Ảnh hưởng điều thiện chừng nào, thì lên cao chừng ấy, ảnh hưởng điều ác chừng nào, thì xuống thấp chừng ấy, nếu ảnh hưởng thiện ác xấp xỉ ngang nhau thì quả báo không thay đổi. 
Những hành động tu tập thiền định, tức là Bất động nghiệp có tác dụng rất lớn. Người tu hành được định nào thì thụ sinh theo định ấy, các nghiệp khác không thể lay chuyển được.
Ngoài Bất động nghiệp ra,còn có những nghiệp đặc biệt, có thể lấn át phần nào ảnh hưởng của các nghiệp khác, đó là Cực trọng nghiệp, Tích tập nghiệp, Cận tử nghiệp. Trong đó, Cực trọng nghiệp là những nghiệp lành, nghiệp dữ rất to lớn, ảnh hưởng nghiệp báo chung như làm những việc Phật sự lớn có ích lợi cho nhiều người sẽ quyết định phần lớn sự đi lên các cảnh giới cao của Thập pháp giới trong đường luân hồi.”
Tạm kết:
Căn cứ vào nhân quả nghiệp báo, như vậy mới thấy việc tinh tiến tu Thiền định và thực hiện các công việc Phật sự lớn sẽ quyết định rõ con đường tiến lên trong tương lai. Tham gia vào quá trình tôn tạo Quốc thái dân an Phật đài chính là thực hiện Cực-trọng-nghiệp nêu trên, theo nhân quả nghiệp báo đó sẽ quyết định cho chúng ta, con cháu chúng ta có được phúc báo hiện tiền tốt đẹp và đạt cảnh giới cao trong đời tương lai. Phật đài Tây thiên cấu trúc bằng đá hoa cương, đây là chất liệu tồn tại hàng ngàn năm, đồng thời với thời gian đó sẽ làm lợi ích cho vô số thế hệ, dẫn-nghiệp này tạo ra phúc báo vô lượng. Từ việc công đức tôn tượng sẽ là thắng duyên cho chúng ta trên con đường đi đến quả vị giải thoát tối hậu.
Công đức xây dựng Phật Đài chính là việc cực thiện, cực lành, là nhân duyên hiếm có trong nhiều thập niên trở lại đây. 
Để kết thúc bài tham luận, xin nói theo lời người xưa, thay cho sự khuyến tấn, chúc nguyện Phật sự tôn tượng Quốc thái dân an sớm được viên thành:
Kìa như cây cỏ vô tri, còn phải nhờ thiện duyên mới nên thiện quả; huống hồ loài người có biết, lại chẳng bởi lành mà thành lành. Những mong hình tượng và giáo lý của Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật lưu khắp, trải hết vô lượng không gian và thời gian vô cùng, phúc trí ấy tỏa xa, hàng Phật tử chúng con nay nguyện tinh tiến tu đạo, hành Phật sự để vị lai được Giác ngộ bình đẳng với chư Phật ở khắp mười phương ba thời quá khứ, hiện tại, vị lai.
Thơ, tổng luận
Muốn đến Tây thiên
Năng hành thập thiện
Bỏ các ác hành
Tinh tiến đi nhanh
Chăm tu thiền định
Tùy duyên nhưng tịnh. 
Cứu khắp hữu tình
Ngộ tính Chân không. 
Tinh tiến tu tâm
Thiền Viện Trúc Lâm 
Nhập pháp thậm thâm 
Tâm không Tâm Có
Thấy rõ chẳng nhầm.
Đó là cốt lõi
Chẳng còn thưa hỏi
Vì còn lời nói
Chẳng phải Chân Thiền
Ở cõi Tây Thiên.
Kính lạy Đấng Thế Tôn, Bậc Chính Đẳng Chính Giác Thích Ca Mâu Ni Phật!


Thứ Ba, 5 tháng 5, 2015

Ngũ Ấm Lăng Nghiêm


Vạn hữu sum la thấp với-cao (sắc)
Chuông kêu ngũ ấm Tưởng Hành vào (thọ)
Lăng nghiêm đại định là Chân-định
Chẳng đánh mà ngân, vọng Thức nào!? ... Thức Out= Vô thức= Xả)
-----
- Dòng chảy liên tục của tâm, sinh rồi diệt, diệt rồi sinh không gián đoạn. Ngay từ sát-na đầu tiên, với sự giao tiếp của căn, cảnh, thức tạo ra hoạt động của cảm thọ ( thập bát giới ). Từ cảm thọ kích phát sự tiếp thu ảnh tượng và khái niệm ( Tưởng uẩn ). Sự tiếp thu này, hình thành xung động tâm lý ( Hành uẩn), vào khoảng sát-na cuối cùng, tâm thức như là chủ thể nhận thức hiện tại, Thức uẩn này quyết định sẽ làm gì sau khi hoàn tất quá trình xử lý đối tượng hay khái niệm nắm bắt được.
- Đại định Lăng Nghiêm là Chân định vì là biểu hiện của Tự-tính-thanh-tịnh-tâm, diệu dụng phổ độ chúng sinh không có chướng ngại.  Rời tất cả các khái niệm, Vọng-thức. Nghĩa là theo duyên mà không đổi, không đổi mà theo duyên.
Thức tâm bản nguyên không có năng sở, do bất giác mà lập ra như có Tính-Minh, khi năng minh và sở mình thành lập. Năng minh không vượt qua được sở minh, sinh ra sự ngăn ngại của tâm thức (Sắc uẩn), có nặng có nhẹ, có lớn có bé...từ một thức tâm lại sinh ra nhiều thức sai khác gọi là chuyển thức hay vọng thức ( hoặc vọng tâm ). 
- Vọng thức là kết quả cuối cùng từ chu trình hoạt động của ngũ uẩn trong 5 sát-na. Khoảng thời gian đủ ngắn để thức sinh ra và diệt không gián đoạn. Kết quả của nhận thức thông thường căn cứ trên thói quen mê lầm của các chủng tử bất thiện lưu lại ( huân tập ) trong Tàng thức, nghĩa là lấy cái này so đo với cái kia, dựa vào nhau hay đối lập nhau mà giả-có. Bản chất đó là sự đối đãi phân biệt. Hình ảnh của thực tại thông qua chuỗi nhận thức duyên khởi như thế gọi là các niệm vọng đi vọng lại,  thực tại theo đó mà méo mó, dẫn đến nhận thức sai lầm, tạo ra kết quả phiền não khổ đau trong chuỗi đời sống vô tận. 
- Rời phân biệt là sự xả ly hay Viễn-ly vọng thức, nhận thức cái thấy như vậy gọi là cái thấy Như-Huyễn.
Như Huyễn, Viễn Ly là thật tướng của Bát Nhã. Thật-tướng này kết hợp với Tự-tính thanh tịnh tâm (Chân Định ) cấu thành bản Thể của Chân Như. 

Thứ Bảy, 25 tháng 4, 2015

Tu Đạo

Mạn đàm về tu Đạo


Đạo vốn là đắc cái Vô-sở-đắc. Nghĩa là có đắc cái gì ngoài những cái ta đang có đâu. Cái có này là cái thật thấy (hiện hữu) chứ không phải là cái có do vọng niệm khởi (huyễn hữu). Hiện-hữu là cái có của KHÔNG, nói kỹ là cái hiện tướng của Chân Không. Chân Không là bản thể của vạn pháp là Chân-thường là Vô-ngôn, là Vô-vi... là cái mà hành giả trực nhận để được gọi là Kiến-tính. Nhận ra nó đồng thời thành Phật đạo. Đó là nghĩa của câu " kiến tính thành Phật".

Học Phật dù là pháp môn ( phương pháp ) nào, hành trì ra sao cũng phải dựa trên cái thấy chân thật về tướng của vạn pháp, về tính của vạn hữu. Cái thấy này là cái thấy của Bát-Nhã!. Vậy làm sao để có Bát-Nhã-trí?. Chúng ta không thể đi cầu đi xin trí đó được, chúng ta cần phải dựa vào giáo lý thực hành mà dần trực nhận được cái thấy thật tướng và thật tính. Cũng như một người mù không biết vật cầm trong tay mình là thanh gươm bén, may gặp được người tỏ chỉ cho biết, phía nào nhọn là mũi, cạnh nào cùn là sống kiếm, cạnh nào sắc là lưỡi...sau khi biết được (giáo lý Phật học cơ bản) đó rồi thì cầm chắc chuôi kiếm không rời ( cũng như đạo cần Tín để vào để giữ sơ tâm cần Trí để tiến lên và vượt qua ). Người này tuy mù nhưng khi đã nhận diện được rõ ràng công dụng của thanh kiếm mà mình có trong tay rồi thì luyện tập, hằng ngày lau chùi để kiếm ko bị rỉ sét ( tịnh Tam Nghiệp ) hằng ngày mài kiếm ( tinh tiến ), rồi đâm, rồi chém... loại bỏ mọi phiền não còn vướng trong tâm. Đêm ngày luyện tập không ngừng nghỉ cho đến khi thành thục, nắm rõ được công dụng của thanh kiếm, đó ví dụ liên tưởng về ý niệm của người học đạo hành Tứ vô lượng Tâm là Từ Bi Hỷ Xả vậy. Cứ như thế sẽ thấy rõ được công dụng mà dần dần tuy không nhìn bằng mắt nhưng lại nhận thấy hình dáng ( thật tướng) và công dụng (thật tính) của thanh kiếm rất rõ ràng và rồi tuỳ duyên sử dụng ( diệu dụng phổ độ chúng sinh) một cách tự tại vô ngại. Cứ như thế mỗi ngày, cứ như vậy mỗi niệm. Đến một lúc nào đó rõ ràng hết mọi vật xung quanh mình rồi thì hoặc ngồi xuống hoặc nằm hoặc đứng, thư thái mỉm cười mà thành Chính Quả.

Quảng Kiến tôi mạn đề mấy câu sau:

Tu Đạo nên thư thả
Tránh cầu và gắng quá
Tam Mật (Thân, Khẩu, Ý) thường thanh tịnh
Dần dần Tâm bể cả.

Tham sân si là ma
Tam độc đó tránh xa
Đạo đời cong một niệm
Vào định Samantha

Giữ tâm như mắt cá
Niệm thiện chẳng niệm tà
Độ mình và độ người
Mỉm cười thành chính quả.

Thứ Hai, 30 tháng 3, 2015

Cấu trúc thơ Quảng Kiến

Trả lời thư của fb Kiều Phan:
Các bài anh viết nói là thơ cũng đúng mà không phải thơ cũng chẳng sai. Nội dung chủ yếu là giáo lý nhà Phật mà anh đã và đang chiêm nghiệm. Cấu trúc các bài anh viết theo pháp Nhân-Minh-Nhập-Chính-Lý- Luận của nhà Phật. Trong đó:
-Nhân là nguyên nhân chính của tất cả sự vật (Pháp giới)
-Minh là giải thích đầy đủ mọi ý nghĩa của các pháp trong pháp giới.
-Nhập là vào ý nghĩa cơ bản của các pháp.
-Chính là giáo lý Đại Thừa chân chính.
-Luận là biện luận và chứng minh cho sự chân chính của giáo pháp Đại thừa. 
Cho nên có thể nói đây là những bài luận nhỏ. Pháp môn Luận nhân minh thuộc về Pháp tướng Tông; gồm lập Tông, Nhân, Dụ. Tông là thể, tướng, tính, dụng, quả, báo của một pháp. Nhân gồm 4 nhân bốn duyên. Dụ là ví dụ chân chính chứng minh cho cái nhân được đúng đắn. 
Cụ thể, bài thơ này anh lập Tông ở câu: "Thấy rõ sum la tính vẫn đồng". Lập Nhân là: "Viên mãn, phải dùng thanh tịnh thuỷ". Lập Dụ là: "Pháp Hoa huyền nghĩa, tan tành núi"...
Tông đây nói về Tính bất sinh bất diệt là thật tính chung ( đồng ) của pháp giới; ở các loài có mạng gọi là Phật Tính, ở các vật có hình gọi là Pháp Tính. Cái tính bất sinh diệt này là giống nhau nên gọi là NHƯ, không phải hai tính khác nhau nên là NHẤT. Ý nghĩa " tính vẫn đồng" trong câu thơ là nói đến tính Nhất-như của pháp giới. Chữ " Sum la" chính là vạn vật trong pháp giới. Bàn thêm về "sum la vạn tượng"; Kinh Hoa Nghiêm Phật thuyết: "vạn pháp duy Tâm", ý; vạn vật trong vũ trụ này dù có hình hay không có hình đều là sự biến hiện như huyễn như hoá của Tâm. Tâm là gốc, tạo ra thân cây, cành cây, cành tạo ra nhánh, nhánh cây mọc ra vô số lá hoa lớn bé tầng tầng lớp lớp (sum suê). Vì từ một tâm mà hoá hiện ra vạn pháp như thế nên gọi là Sum la vạn tượng. 
Lại dụ như nước, theo duyên mà có sóng lớn sóng bé, bọt nước lớn bé không đồng về hình tướng, nước lại khi trong, khi đục. Sóng lớn bé to nhỏ trong đục đó là dụ cho vạn pháp đều biến ra từ nước hay là từ một Tâm. Mặc dù có hình tướng khác nhau nhưng cấu tạo từ nước, chỉ có một tính (chất nước). Khái niệm Viên Mãn ở câu thứ ba trong bài thơ là nói đến pháp viên thông Thuỷ Đại trong Kinh thủ lăng nghiêm, viên thông thuỷ đại là nhận rõ sóng nước, bọt nước vốn tĩnh lặng vốn thanh tịnh có tính là tính Chân Không. Viên Mãn là ngộ được " Tính thuỷ chân không, tính không chân thuỷ" nói cô đọng như trong bài thơ để Viên mãn thì phải ngộ được "thanh tịnh thuỷ" vậy. 
Theo yêu cầu, Anh cắt nghĩa sơ sơ về hai chữ "sum la" và "thanh tịnh thuỷ" để em rõ thêm. Phật pháp có tam tạng kinh điển gồm 84.000 pháp môn, đạo lý phương tiện lập nên từ tâm lý của con người nên trùm cả danh tự. Khi viết thơ phải chọn lọc để cô đặc ý tứ nên ngôn từ thường mới lạ. Đạo lý nhà Phật thiết thật lợi ích cho sự tiến hoá của tâm thức, lại là " thế gian giải", em cũng nên phát tâm tìm hiểu kỹ về giáo lý rồi đặng ứng dụng vào đời sống thì mọi sự mọi việc sẽ được an lạc, sẽ được Viên mãn.

Thứ Sáu, 20 tháng 3, 2015

Mạn đàm về "...Bát Nhã Ba la Mật..."

Mạn đàm về "...Bát Nhã Ba la Mật... Chiếu kiến Ngũ uẩn giai không"


Trở Về!, Năm uẩn ở đây ko phải là đối tượng của chiếu và kiến mà là thực tại hiện hữu. Câu việt dịch "Soi thấy năm uẩn Tự tính không"? Đúng phải là: thấy năm uẩn là Không trong tự tính. Chú ý: Không khác không (K và k), viết "không" nghĩa là không - chi là hiểu sai về chữ Không ( Chân Không) trong tự tính. Cái thấy như thật là cái thấy vô phân biệt. Thấy thực tại từ ngũ uẩn là cái thấy Như-huyễn, cái thấy không so đo, hay cái thấy Viễn-ly. Như huyễn, Viễn ly này mới là cái thấy thật tướng của Bát Nhã. Như huyễn vì vạn pháp khởi tạo từ Tâm, tâm đây là Chân Tâm là nói về lý. Sự Bát-Nhã là Chân Tâm vì đầy đủ trí tuệ chân chính. Ba-la-mật là Chân Tâm vì bản lai không có tướng ngộ mê. Thấy không có tướng ngộ mê vì rời phân biệt vào Tự Tính không hai ( bất nhị). Cái gì rời các pháp đối đãi, không lớn không bé, không diệt không sinh, thường trụ, tịch tĩnh?... Chỉ là Tự Tính, là tính bất sinh bất diệt, cũng là thật tính của pháp giới. Pháp giới tính này chính là tính trùng trùng duyên khởi kinh Pháp Hoa thuyết, cũng gọi là tính Bản - Nhiên trong Kinh Lăng Nghiêm tả. Rõ được Tự tính thì ngộ đạo, như Lục Tổ Huệ Năng đã thốt ra:
"Đâu ngờ tự tính vốn tự thanh tịnh,
Đâu ngờ tự tính vốn chẳng sanh diệt,
Đâu ngờ tự tính vốn tự đầy đủ,
Đâu ngờ tự tính vốn chẳng lay động,
Đâu ngờ tự tính hay sinh vạn pháp!"
"Đâu ngờ" là ngộ được tính bất sinh bất diệt, cũng là tính Vô vi, cũng là tính Chân Như.
Trên là sơ nói về Tự Tính, để nói về nó, HHQK mạn viết đôi câu:
Tự-tính chỉ là tự tính thôi
Tính đi tính lại tính luân hồi
Tuỳ duyên ảnh hiện mà Không-tính
Tự tính thế nào? Tư tính coi!

Chủ Nhật, 8 tháng 2, 2015

Bàn về Đạo sống

Đầu năm vì mình vì người viết:
NHÂN: 
Một người em tự vấn về đạo-sống
DUYÊN viết:
Đạo-sống có nhiều, chủ yếu là đừng có dính đến vần "AO", như đừng có XẠO, rời mọi cái ẢO, tránh sự TÀO LAO... cuối cùng chẳng may túng quẫn thấy hết đường, đừng như mấy cô cậu xanh non chọn điểm dừng dưới hồ, dưới AO. Bàn về sự tìm cái Đạo, cốt lõi nên sống rộng rãi, từ bi hỷ xả ở đời vì đạo cũng chỉ là danh là tự, không phải cái có thể đi tìm để được, tránh nhất là lấy danh đạo để tạo đời. Như vậy ko cần đến 10 năm, chỉ một niệm là đủ, nếu không như thế muôn kiếp vẫn thừa.
QUẢ thơ: 
Nhàn nhàn tính lại chuyện Đạo - Đời
Lên lên xuống xuống đã mấy nơi
Xoay vần sinh tử Đời là có
Sống mà buông-xả Đạo lại không
Như vậy Đạo - Đời là bất nhị
Còn chi chi nữa chuyện Đạo - Đời.

Thứ Sáu, 16 tháng 1, 2015

Chùm thơ tết

1.
CHÚC mọi hữu tình thoát khổ duyên
MỪNG chờ chư Phật luôn hiện tiền
NĂM an tháng lạc rời hư huyễn
MỚI cũ ra sao cũng chẳng phiền.












2.
CHÚC mới đến thì cũ sẽ thay
XUÂN về vui đạo gặp duyên may
GIÁP niên đón cảnh nhà tươi đẹp
NGỌ hoả trí thiền hết cái say
AN ổn thế gian cùng tiến đến
LẠC, Định, Tĩnh rồi thấy Xuân ngay.
3.
Xuân về cũng thấy giống Thu sang,
Ngoài ngõ trong nhà vẫn nắng vàng.
Xuôi ngược bôn ba theo sự-lý,
Chi bằng dừng tại chốn không-mang!.
4. 
An lạc ba ngày tết đã qua
Sáng chiều vui trẻ với vui trà
Chơi Xuân chưa đã còn lo thiếu
Rượu thịt không phạm: ngũ giới mà
Làm người Phật tử thường thanh tịnh
Chẳng vì Tết đến để quá đà
Còn bao ngày nữa tròn năm mới
Giáp Ngọ tới rồi: Ngựa phi xa!
5.
Tết người Phật tử vui muôn nơi
Tam Bảo lộc ban sự thảnh thơi
Hỷ Xả Từ Bi làm mứt kẹo
Yêu đời đẹp Đạo bó hoa tươi
Sáng câu niệm Phật chiều Thần chú
Tối lại hành trì, não phiền trôi
Xuân tới Đạo tràng chia chiếc bánh
Kim cương bốn đũa gắp ta mời.
6.
Mở cửa sáng nay vệt nắng vàng
Nghe Trầm hương thoảng rõ Xuân sang
Trong nhà ríu rít tiếng cười trẻ
Ngoài ngõ Ngựa xe đã sẵn sàng...
...Giáp Ngọ đây rồi.. 
Đời, Đạo thênh thang, 
Đạo hữu ơi!... 
Tinh tiến lên đàng... Bến giác sớm sang!
7.
Nắng vàng
hé nụ tầm Xuân
Kéo nhân gian dậy
tình Chân Đạo tràng.
Xuân về
dậy tiếng cười vang,
cho không gian vỡ
tan màng vô minh.
Xuân về
Ta lại chính mình
Mặc nguyên Xuân dậy

Mặc tình nhân gian.

Thứ Ba, 13 tháng 1, 2015

Chu dịch Thiền luận

Pháp Phật có nhiều, mỗi mỗi pháp môn đều căn cứ theo căn tính của chúng sinh mà thiết lập. Về sự tướng có khác nhưng về Chân lý chỉ có một "vị". Đó là vị giải-thoát, “giải” là làm cho thay đổi nhận thức sai lầm về thực tại của đời sống, “thoát” là rời những ràng buộc làm cho chúng ta mất sự tự do. Kinh Pháp Bảo Đàn nói “ Phật pháp bất ly thế gian giác”, nghĩa là sự giác ngộ của Phật bắt nguồn trên nhận thức của người đời (pháp-thế-gian) hay từ nhận thức thường nghiệm mà thành tựu.
Ở bài viết này chúng tôi căn cứ trên sở học của người xưa về Dịch-học mà luận giải về bản chất của vạn pháp theo góc nhìn của Thiền học. Thiền là phép quán sát sự vật hiện tượng theo thật tướng thật tính, nghĩa là bóc bỏ hết những màng duyên sinh nhằng nhịt những quan niệm sai lầm của nhận thức về thế giới của chúng ta và về tâm thức của chúng ta. Dịch-học chính là bộ môn khoa học thế gian mô tả lại môyj phần các mối quan hệ sinh và diệt của duyên-sinh của thế giới vật chất và thế giới tâm thức. Để hiểu về duyên sinh có nhiều, giới hạn ở bài nghiên cứu này chúng ta bắt đầu dùng dịch học để dự đoán tương lai của chính mình, rồi từ đó phân tích các khái niệm, truy tầm nguyên nhân. Khi đã rõ được tự-tâm của mình rồi thì mọi sự tướng dù ẩn hay hiện, dù đã sinh hay đã diệt...mỗi mỗi đều rõ ràng không còn vướng mắc. Đây cũng chính là sự thấy biết khác nhau giữa phàm phu và thánh nhân vậy.
Chúng ta sinh ra mỗi người đều có ngày tháng năm sinh riêng khác, gồm có số năm sinh, số tháng sinh, số ngày và số giờ sinh nhất định. Vì đã sinh ra vào năm tháng ngày giờ đó rồi nên không thể lại quay vào sinh lại để chọn giờ khác tháng khác được nữa. Cho nên mới nói “Số không đổi được”. Vì điều này mà nhiều người quan niệm sai lầm là Số đã an bài. Sự thật số không đổi chỉ là khái niệm số-học chứ không phải số-mệnh là diễn biến cuộc đời từ khi sinh đến khi tử của mỗi người đã được lập trình sẵn. Nếu như vậy thì chúng ta khác cái máy ở chõ nào!?.

Con người ta sinh ra vào thời điểm nào, tại địa điểm nào trong thế giới bao la rộng lớn này tất phải có nguyên nhân, người khoẻ mạnh, người ốm yếu, người giàu, kẻ nghèo khổ… chắc chắn phải có nguyên do. Đi tìm câu hỏi này đồng nghĩa với việc suy tư về cây lúa. Cây lúa mọc ở nơi khô cằn khác với cây lúa mọc ở nơi phù sa tươi tốt. Lúa cũng tốt hơn khi phát triển ở thời tiết ôn hoà mát mẻ, vào thời điểm khô hạn dù cố gắng chăm bón thì cũng chỉ ra bông bé hạt lép mà thôi. Như vậy cây lúa tuỳ theo điều kiện sinh trưởng mà có kết quả khác nhau. Từ thời điểm gieo mầm cho đến việc bón phân, cần, giống…tập hợp những yếu tố này gọi là Duyên. Duyên chính là điều kiện.

Con người ta cũng vậy, sướng khổ đều có nguyên nhân. Đơn giản như cây lúa mà còn khó suy lường huống hồ con người ta nay đây mai đó, môi trường sống sai khác, quan hệ phức tạp, tính cách thay đổi hằng ngày, chịu ảnh hưởng của khí hậu thổ nhưỡng văn hoá vùng miền...Như người miền trung thì có khi hiền hoà ( chữ Thuận là thật đức của quẻ Khôn theo Dịch học), có khi dữ tợn ( chữ Nghịch), hầu hết các cuộc khởi nghĩa cách mạng đều bắt đầu xuất phát từ miền trung. Người miền Nam theo vị trí địa lý của dịch học thuộc quẻ Ly hoả, tính cách có người rất huy hoàng tráng lệ là được cách thật đức, có kẻ tâm hồn lại trống rỗng là cách hư đức của quẻ Ly…Con người sống trong mối qua hệ nhiều tầng nhiều lớp như vậy để dự đoán một sự vật hiện tượng liên quan đến con người quả thật không phải là điều đơn giản.

Giới hạn quyển sách này chúng tôi muốn giới thiệu một góc nhìn về bản chất Dịch học dưới phương pháp Nhân Minh luận của nhà Phật.

Nói về pháp Nhân Minh của nhà Phật chính là việc thông qua kết quả (lập Tông) để xét lại mối quan hệ của Nhân và Duyên. Như việc thành tựu Đại pháp thân là do nhân tu Bồ đề tâm, hay quả Nhất thiết trí do nhân tu Bát Nhã…

Nhân tu

              Từ việc theo dõi sự phát triển trong suốt vòng đời của cây lúa qua nhiều ngàn năm con người đã rút ra được kinh nghiệm và dự đoán được kết quả phát triển, mỗi khi có sự thay đổi của một trong các yếu tố cấu thành hay nói cách khác là thay đổi duyên. Phương pháp dự đoán về con người cũng dựa trên kinh nghiệm như vậy. Do con người được cấu thành bởi nhiều thành phần phức tạp. Tổng hoà gồm phần thân và phần tâm. Để đoán biết được sự phát triển theo từng giai đoạn sinh lão bệnh tử cho đến việc thành bại của công việc trong cuộc sống theo phân tích trên thì chúng ta phải tìm hiểu được các nhân và duyên của con người. Dựa vào đó mà luận đoán được kết quả. Người nào nắm chắc được cấu trúc phát triển và các thay đổi của duyên thì sẽ dự đoán chính xác.

Đời người trăm năm, chẳng mấy ai có thể đủ thời gian để học hết kinh nghiệm của thế giới vô cùng này ấy vậy mà xưa nay có nhiều vị Tổ sư để lại các bài sấm ký dự đoán tương lai cho suốt hàng ngàn năm sau rất đúng.

Kinh Phật thuyết có rất nhiều điều mà đức Phật đã dự đoán trước về tương lai. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy, về sau này, sau khi ta nhập diệt, chúng sinh ở vào thời mạt pháp làm ra nhiều sự huyễn hư tạo ra lắm bệnh quái dị, tâm tham sân si nổi lên đánh giết nhau, đến cực vi cũng làm hại được chúng sinh.” Cực-vi mà đức Phật nói đó chính là bom nguyên tử ngày nay vậy.

Gần hơn, cách đây khoảng 1000 năm có Tổ sư Quý An để lại bài sấm ký như sau:

“ Thụ căn diểu diểu
Biểu Mộc thanh thanh
Đào hoa mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông A nhập điện
Dị Mộc tái sinh
Đoài cung ẩn tinh
Lục bát niên gian
Thiên hạ thái bình.”

Đây là bài sấm ký nói đến kết quả và thứ tự của các triều đại từ thời nhà Đinh đến nhà Tiền Lê, Nhà Trần, nhà Hậu Lê…dự đoán tới năm 2018 của nước Đại Việt.

Hay như bài sấm của Bạch Vân Cư sỹ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“ Ta tai thiên hạ nhược bềnh bồng
Nam Bắc kỷ hà nhược lộ thông
Hồ ẩn trung sơn Mao tận bạch
Kình dương hải ngoại huyết lưu hồng
Kê minh Thỏ ngọc thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất lam điền Nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thướng
Thế gian cộng hưởng thái bình phong”

Bài sấm ký của cụ Trạng Trình dự đoán về vận cục của nước Đại Việt theo hai câu cuối bài sấm của Tổ sư Quý An.

Hiện nay chúng ta đã chứng minh và trải nghiệm được các bài sấm xưa là đúng với diễn biến thực tế. Trên thế giới có nhiều nhà tiên tri cũng có khả năng dự đoán tương lai rất chính xác. Vậy câu hỏi đặt ra: tại sao họ lại có thể đoán biết được kết quả tương lai!?

Quay trở lại việc trồng lúa thì chúng ta biết được sẽ có hạt lúa chắc hay lúa tép bởi ta nắm bắt và biết được các yếu tố sẽ tác động lên quá trình phát triển của cây lúa. Cũng như vậy, đức Phật cho đến các vị Tổ sư và nhà tiên tri đã nắm bắt được các điều kiện và diễn biến của một sự vật và hiện tượng rồi từ đó rút ra được quy luật phát triển. Căn cứ vào quy luật đó mà dự đoán về người về sự vật khác nhau tương ứng.

Dự đoán một sự vật hiện tượng xuất hiện và diễn biết trong một quãng thời gian dù là về quá khứ hay tới tương lai chính là việc nắm bắt được sự tác động của nhiều yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau nhiều tầng nhiều lớp như vậy. Nhà Phật đã rút ra được quy luật bản nhiên của sự vật hiện tượng gọi là luật Nhân Quả.

Theo đó mới thấy, ai nắm được then chốt của nhân quả thì có thể thay được tương lai đổi được hiện tại.

Nhiều người rất ngạc nhiên và khó hiểu vì khi đọc ngày tháng năm sinh của mình thì có người sẽ nói ra được tổng quan cuộc đời của họ. Phép xem ngày tháng năm và giờ sinh ( tứ trụ) để dự đoán như vậy có nhiều. Cụ thể phép an sao của ngừoi Ấn độ do Ngài Thiện Vô Uý Đường Tam Tạng truyền vào Trung Quốc là sử dụng mười hai sao an liên tiến trên mười hai địa chi theo năm tháng ngày giờ từ sao Thiên Quý tại cung Tý đến Thiên Thọ tại cung Hợi rồi căn cứ vào ý nghĩa các sao tại các cung an mà luận đoán. Ngoài ra còn các pháp dự đoán khác dựa vào nền tảng âm dương sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái kết hợp thành 64 quẻ kép rồi căn cứ theo ngũ hành tương sinh tương khắc của các hào với ngũ hành của người mà đoán biết về quá khứ và tương lai. Pháp môn này dựa trên nền tảng của Chu Dịch, về cơ bản khá chính xác…

Các phép dự đoán tương lai kể trên chính là việc căn cứ vào kinh nghiệm nhiều đời của nhiều người, từ đó rút ra được các quy khác nhau như luật âm dương, ngũ hành…

Xét thế mới biết tất cả các pháp môn cho đến diễn biến của mọi sự vật hiện tượng đều tuân theo quy luật Nhân Quả đều dựa trên nguyên Nhân kết hợp với điều kiện là Duyên mà trổ Quả tương ứng.

Chúng ta đang trên đường tìm hiểu và suy ngẫm các phương pháp để dự đoán sự việc thì điều cốt yếu là phải thông tỏ được Nhân Quả.

Nói về Nhân Quả thì có nhân hiện tại sinh quả hiện tại, có nhân quá khứ sinh quả hiện tại. Nhân làm quả rồi quả lại làm nhân bồi đắp tầng tầng lớp lớp như vậy thật là thiên biến vạn hoá không khi nào ngừng nghỉ. Các sách viết về Chu Dịch trong Hệ từ nói: “Dịch chi vi thư dã, bất khả viễn, vi đạo dã lũ thiên, biến động bất cư, chu lưu lục hư, thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch; bất khả vi điển yếu, duy biến sở thích.” ( Sách dịch không thể xa lìa được; đạo Dịch luôn dời đổi, biến động chứ không ở yên một chỗ, trôi chảy bao quanh khắp cả sáu cõi, đi lên đi xuống không theo quy luật nhất định nào, cương nhu thay đổi nhau, không thể lấy nó làm chuẩn mực cố định; mà chỉ thích hợp với sự biến hoá thay đổi). Trích hệ từ này mới hay Tông chỉ của Dịch cũng chính là nói lên một phần của luật nhân quả. Sự biến đổi mà Dịch nói đến chính là sự tác động của nhân quả tương tục từ ngày đến đêm… từ thời này sang thời khác của các sự vật hiện tượng khác nhau.

Xét thêm về phong thái “ ngã tắc thị ư dĩ, vô khả vô bất khả” của cụ Khổng Tử cũng như vậy. Ý câu này nói là điều gì cũng không thể và điều gì cũng có thể. Nghĩa của không-thể là xét đến khía cạnh nắm bắt được then chốn của nhân quả, nghĩa của có-thể là nương theo nhân quả mà xét biết được sự việc vậy.

Tổ sư đời thứ sáu của Thiền Tông Trung Hoa là Lục Tổ Huệ Năng là một người không biết chữ, sau một lần gánh củi đi bán, được nghe người tụng kinh Kim Cương đến câu “ Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” (thì hoát nhiên đại ngộ. Ngài ngộ cái gì đây?. Nói về sở ngộ trong nhà Phật thì vô cùng nhưng tựu chung cũng là nắm bắt được bản chất của vạn pháp nghĩa là nắm được then chốt của nhân quả trùng trùng. Triệt ngộ là thời điểm mà hành giả tu Phật trực nhận được thực tướng của mọi sự vật hiện tượng, nắm bắt được quy luật biến hiện của tâm của vật chính là nhập một với pháp giới tính trùng trùng duyên khởi. Nghĩa là nắm bắt được các nhân và duyên tác động qua lại nhiều tầng nhiều lớp như thế nào…Kinh Phật có nói: trong một trận mưa chư Phật có thể biết được có bao nhiêu hạt mưa là ở khả năng thông tỏ được Nhân Duyên Quả.

Chúng ta trở lại phân tích các khía cạnh và vấn đề của việc dự đoán tương lai của Kinh Dịch theo kiến giải của Thiền. Thiền ở đây là sự quán chiếu soi xét đúng với sự thực.

Như trên đã nói để đoán biết được kết quả tương lai của con người chúng ta phải hiểu rõ được sự phát triển và các ảnh hưởng đến cá nhân đó. Con người có phần thân và phần tâm. Phần thân được cấu tạo bởi tứ đại là địa thuỷ hoả phong. Địa là phần vật chất như xương thịt nội tạng, thuỷ là phần máu mủ, hoả là phần hơi ấm, phong là phần khí trong người. Phần Tâm mà người đời gọi là phần hồn, nhà Phật gọi là Thần thức gồm Kiến đại và Thức đại.

Kiến đại là phần thấy biết của sáu căn với sáu trần, phần này chính là thói quen được huân tập nhiều đời kiếp, cũng là căn cứ giải thích cho khái niệm năng-khiếu khác nhau của người đời. Như có người sinh ra đã sáng tác được âm nhạc, lại có kẻ sinh ra đã có năng khiếu về hội hoạ, về thể thao, về khoa học khác nhau…

Thức đại chính là sự lưu giữ các phân biệt, hay nói đủ là Tàng thức, nơi tàng trữ các chủng tử của chư pháp. Chủng tử là hạt giống của thiện nghiệp và ác nghiệp của mỗi người. Thức-đại này làm căn bản cho các căn duyên với các trần mà hoá hiện ra thế giới tương ứng
...còn tiếp...

Thứ Hai, 5 tháng 1, 2015

Thư gửi anh Trai

Gửi Anh trai:
...Anh là người có tâm hướng Đại thừa, về mặt thế gian lại có một số điểm mạnh hỗ trợ điểm yếu của em, với khả năng và kinh nghiệm 10 năm doanh nghiệp, em sẽ cùng anh xây dựng sự nghiệp bền vững, cũng là để thực nghiệm pháp thế gian và có thời gian tu tập là tự lợi và thực hành hạnh Bồ Tát đạo làm các việc lợi tha giúp người. Đức Phật có nói tăng đoàn phải từ hai người trở lên, cùng tu và hỗ trợ nhau trong sinh hoạt cuộc sống mới có thể sớm thành tựu đạo nghiệp. Ví dụ rõ ràng ở tình huynh đệ giữa ngài Xá lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên, xa hơn nữa là Phật A di đà và Phật Dược Sư, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc…

Em biết khả năng "tạo sóng" rất lớn của anh. Em nói sóng là nói theo cảnh giới của kinh Lăng Nghiêm, “mọi sự đều do sóng tâm tạo thành”. Anh có cách để làm cho người khác liên kêt tụ hội, cũng như sóng giúp cho đất bồi, nhưng sóng đôi khi cũng phá vỡ những thứ kém bền vững. Cùng tạo dựng sự nghiệp với anh, em sẽ làm tốt yếu tố nhu nhuần tạo xúc tác làm cho sự liên kết yếu đó được bền vững trong giai đoạn khó khăn ban đầu. Song song với nhiệm vụ đó em có thêm sự hỗ trợ của anh để có không gian và thời gian tu học.

Như anh nói, chúng ta chưa có Thầy trực tiếp chỉ dạy nên phải học qua sách vở. Em đọc trước hay anh đọc đều có lợi ích cho nhau. Bởi con đường của ta chính là chuỗi đời sống vô tận, đời này chỉ là một bước ngắn mà thôi. Song song với công việc anh em ta cùng trao đổi giáo lý và đem ra ứng dụng để lợi mình lợi người. Anh vẫn hay thích khái niệm thần thông, em cũng vậy, nhưng có câu "thần-thông không bằng thần-diệu" nghĩa là cuộc sống dù gian nan đến đâu, mặc dù phải tìm mọi cách để tồn tại phát triển nhưng ta cố gắng không để cho bất cứ ai phải phiền lòng về đạo đức lối sống của mình, được như vậy mới là tuyệt-diệu, còn khi giàu có về tiền của và có thế lực thì không nói làm gì. Tổ Lâm Tế có nói kệ: …kẻ thần thông không bằng người tầm thường mà VÔ-Sự… vì những điều này nên từ giờ anh em ta cũng hết sức cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, mười mình chỉ nên nói một để có được cách “ thâm tàng bất lộ”, mình nói ra để lấy lòng người nhưng có khi họ chưa hiểu lại đánh giá mình là “nổ” quá thì lợi bất cập hại. Việc tỏ ra lợi hại hơn người cũng chưa hẳn tốt, họ sẽ kỳ vọng nhiều dẫn đến thất vọng lớn. Có người đưa ra câu chuyện lãnh đạo của Đường Tăng với Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới, Sa Tăng: xét về tài phép thì Tôn Ngộ Không vượt trội nhưng vẫn phải theo hầu Đường Tăng, các đệ tử khác cũng là tài phép hơn hẳn. Vấn đề đặt ra với người lãnh đạo cũng vậy. Quan trọng là tập hợp được người tài giỏi hơn mình. Để tụ hội và sử dụng hết năng lực của họ. Cốt yếu của sự quy tụ những người tài giỏi hơn thì chúng ta phải có cái tâm bao dung, trong công việc và cuộc sống chúng ta hằng giữ lễ với người. Lưu Bị ba lần cầu Khổng Minh, mặc dù là phận chủ tới nhưng lại thờ Khổng Minh như thầy, cũng là công nghệ lãnh đạo giống nhau đó mà Đường Tăng vượt qua chướng ngại thành tựu đạo quả, Lưu Bị lập nên đế nghiệp…Công nghệ lãnh đạo của Đường Tăng chính là niềm tin bất thối chuyển về con đường giải thoát tối  hậu. Thần thông vẫy vùng loăng quăng của Tôn Ngộ Không chính là tài trí thế gian cũng không qua được bàn tay của Phật Tổ, hay nói đúng ra là huyễn hư không thể nào vượt qua sự thật. Đó thể hiện bản chất của Pháp thế gian và pháp Xuất thế gian. Nghĩa là thế gian pháp chỉ là để hỗ trợ cho xuất thế gian.

Dù là thế gian hay xuất thế gian, xưa chư Tổ vẫn thường dạy bảo, với người Phật tử là " DUY TUỆ THỊ NGHIỆP", có nghĩa sự nghiệp chính của người Phật tử là phát triển Tuệ-Giác. Khái niệm tương tự là khái niệm Đa-văn. Đa văn khác với Tuệ-giác. Đa văn là học hỏi và hiểu biết nhiều điều, nhiều chuyện. Tuệ giác là nhận thức được thực tại. Người có tuệ giác chắc chắn sẽ đa văn nhưng kẻ đa văn chưa chắc đã có tuệ giác. Kinh Phật dạy nếu người có tuệ giác thì sống trong chông gai lửa đạn cũng an lạc như trong chăn ấm gối êm vậy. Bởi có tuệ giác thì nhận rõ được và sống với thực tại chân thật chứ không phải vọng danh vọng vật, vọng sắc vọng tài. Cái vị giác ngộ này có được do từ lối sống với tâm Vô-ngại, pháp môn giải thoát đó có tên gọi Bất ngại Tính Không Bát Nhã.

Kinh 42 chương có đoạn: cúng dường cho 1000 người ác không bằng cúng cho một người thiện…cúng cho 1 vạn người thiện không bằng cúng cho một người tu đạo…cúng dường cho Tam thế Phật không bằng cúng cho một vị Vô trí, Vô tu, Vô chứng, Vô đắc.” Khái niệm Vô-Trí rất quan trọng trong học Phật. Chúng sinh vô minh nhiều nên có lắm nỗi khổ niềm đau, tu đạo là để nhận thức đúng với thực tại mà xoay chuyển mê lầm, gọi là việc xoá vô minh. Như vậy cái trí lớn có đó chẳng qua chỉ để diệt trừ vô minh nhiều mà thôi. Kinh Bát Nhã có dạy: “bởi còn vô minh nên phải tạm thời dùng trí, vô minh hết thì trí cũng chẳng cần”. Nghĩa là hết vô minh thì đắc Vô trí, vậy cho nên người có trí thế gian nhiều thì chẳng qua là vô minh lắm. Xưa nay vì tham danh để được người tung hô, muốn đứng lên đầu kẻ khác để được phục dịch mà người ta tìm mọi cách để luồn lách hại người…đỡ hơn tí là học mánh khoé, kỹ nghệ để thăng tiến. Nên thương cho những kiểu người như vậy vì họ chưa đủ nhân duyên để tu Pháp niệm Phật, không thấy được sự an lạc đích thực của chuỗi đời sống vô tận. Mãi rong ruổi với tâm phân biệt, cho là người khác phải phục tùng mình mà quên đi vạn pháp vốn bình đẳng vốn đồng thể tính.

Em thường xuyên quán niệm như vậy nên càng ngày em càng ít nói, chỉ tuỳ duyên mà dãi bày, lại cũng không cho mình hơn ai điều gì, như thế em thấy ít rắc rối hơn và cũng là có nhiều thời gian hơn cho sự nghiệp “duy-tuệ” của mình. Lại không cho là mình có trí hơn người, bởi theo lập luận trên thì chẳng khác gì mình khoe cái vô minh nhiều. Hôm ở Cambodia anh mới nói với em là giờ anh không thích uống rượu nữa, đó cũng là bởi tu vị của anh đã tăng tiến. Nghĩa là ở cảnh giới khác, địa khác thì tư tưởng thanh cao hơn, nhu cầu ham muốn sẽ khác hẳn.

Đức Phật dạy rất rõ ràng, có ba tiệm thứ tu đạo Bồ Tát, tiệm thứ đầu tiên mặc dù chưa ăn trường chay nhưng tuyệt nhiên phải bỏ bốn thứ rau cay. Nếu không như Kinh Thủ Lăng Nghiêm Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa đã dạy: dù có thông 12 bộ kinh thì cũng chỉ như lấy cát nấu cơm, mãi mãi không thể thành tựu được. Tiệm thứ tu hành thứ hai là tu pháp Vô-Ngã, vô ngã là rời Ngã sở. Có bốn tướng bệnh của Ngã gồm: Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sinh tướng, Thọ giả tướng.

1-   Ngã tướng là chấp cái tôi được khen, chê, yêu, ghét
              2-   Nhân tướng là chấp thân mình, vật từ mình hơn người
              3-   Chúng sinh tướng là chấp cái thân người khác thua kém mình, vật của người khác không quý bằng vật mình
             4-   Thọ giả tướng là chấp cái ta biết hơn hẳn và khác với cái biết của người.

Tiệm thứ tu hành thứ ba là tu Pháp Bất Nhị, điển hình hành đạo theo pháp môn Bất nhị là Ngài Duy Ma Cật. Con đường tu Bồ tát đạo này chính là con đường từ phát Bồ đề Tâm, tu Bồ tát đạo, hành Bồ tát hành và thành Bồ để quả. Trong Luận Đại Trí Độ, Bồ tát Long Thọ đã nêu ra 5 giai đoạn tu chứng của Bồ Tát đạo cho 53 quả vị Bồ tát từ quả vị sơ phát tâm đến quả vị Diệu Giác Bồ tát thứ 52 và Quả vị Viên Giác Bồ tát thứ 53 là thị hiện thành Phật. Năm giai đoạn tu chứng Bồ tát đạo như sau:

1.   Giai đoạn phát Bồ đề tâm: là giai đoạn người học đạo nguyện vì chúng sinh mà thành tựu. Kinh Duy Ma Cật thuyết rằng: “sự nghiệp của Bồ tát chính là thành tựu chúng sinh”. Bồ đề tâm nguyện là phát tâm tha thiết cầu thành Phật đạo có đủ thập Ba la mật để hoá độ chúng sinh. Cái bản tâm không có thối chuyển đó chính là Bồ đề tâm. Bồ đề tâm ở giai đoạn này mới là hình ảnh ước nguyện chứ chưa phải là Tâm Bồ Đề chân thật.

2.   Giai đoạn Phục tâm Bồ đề: giai đoạn này tu pháp, niệm Phật hàng phục phiền não và khởi động tu theo Lục độ Ba la Mật.

3.   Giai đoạn Minh Tâm Bồ đề: là giai đoạn phân tích sâu về Tổng tướng và Biệt tướng của vạn pháp, hành Lục độ Ba la Mật và nhận rõ được tính thanh tịnh của vạn pháp.

4.   Giai đoạn Xuất đáo Bồ đề: Thành tựu Lục độ ba la mật

5.   Giai đoạn nhập Vô thượng Bồ đề: Đắc nhất thiết chủng trí.

Như vậy, con đường tu Bồ Tát đạo là con đường dài vô tận để hoá độ chúng sinh và nhất thiết vì lợi ích chúng sinh. Rời tâm phân biệt mà tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, đó là chặng đường không mệt mỏi hành Tứ-vô-lượng-tâm. Từ, bi, hỷ, xả là tứ vô lượng Tâm, đây là bốn cánh cửa để vào Bồ đề quả. Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, Hỷ là vui mừng, Xả là rời phân biệt.

         Pháp tu Bồ tát đạo có nhiều song để viên mãn Bồ đề quả lại chính là tu hành theo thập hạnh Phổ Hiền, Bồ đề quả là công đức thù thắng của chư Phật. Bồ tát Phổ Hiền trong phẩm Phổ hiền hạnh nguyện sau khi khen ngợi công đức thù thắng của đức Như Lai, bèn nói với chư vị Bồ-tát và Thiện Tài đồng tử rằng: Này thiện nam tử, Công đức của đức Như Lai, giả sử tất cả các đức Phật ở mười phương, trải qua số kiếp nhiều như vi trần, ở các cõi Phật nhiều không thể nói hết, diễn nói không ngừng về công đức ấy, cũng không thể nào nói hết được. Nếu muốn thành tựu được công đức ấy, cần phải tu tập mười hạnh nguyện rộng lớn. Mười hạnh nguyện ấy là gì?:

1-   Nhất giả lễ kính chư Phật

2-   Nhị giả xưng tán Như Lai

3-   Tam giả Quảng tu cúng dường

4-   Tứ giả Sám hối nghiệp chướng

5-   Ngũ giả tuỳ hỷ công đức

6-   Lục giả thỉnh chuyển pháp luân

7-   Thất giả thỉnh Phật trụ thế

8-   Bát giả thường tuỳ học Phật

9-   Cửu giả hoằng thuận chúng sinh

10-        Thập giả phổ giai hồi hướng

Trong các pho kinh Đại Thừa Phật thuyết, căn cốt vẫn là hành theo Thập nguyện vương này của Bồ tát Phổ Hiền. Con đường nhận thức đúng và hành động đúng về Bồ Tát đạo anh em ta còn phải đàm luận và sam học nhiều để sớm có được tâm vô ngại mà hành thiện nghiệp, dầ dnần thành tựu vô lượng công đức thiện vô lậu, làm tư lương cho các đời sống kế tiếp trong chuỗi đời sống tiến đến quả vị toàn giác...