Thứ Hai, 13 tháng 2, 2012

Tháp Phật


Tháp Phật    
(Quảng Kiến – Nguyễn Việt Hồng. Bài đăng trên tập san Chùa Hương năm 2012)

Dẫn nhập
Như tôi được nghe: “Vạn Pháp do Tâm tạo, vạn vật thành trụ hoại không hoặc có hình hoặc không hình đều hội đủ cả Tướng Tính Thể Dụng. Mọi sự do từ một tế (Tâm) mà sinh ra, kẻ sơ cơ bám lấy những cái thấy biết trước mắt, chấp vào phân biệt, rồi từ tam độc (tham, sân, si) tạo nghiệp để phải chịu cảnh khổ luân hồi; hoặc cũng từ cái thấy biết đó mà giác ngộ được chân lý tu hành thoát khỏi tam giới thể nhập vào cõi tịnh độ của chư Phật . Đức Thế Tôn Đại Từ Đại Bi thị hiện trên cõi Sa Bà dùng đủ cả phương tiện Khai Thị Ngộ Nhập chỉ đường cho chúng sinh thấy được Phật tính của chính mình để thành Phật như Ngài, cho đến nay trải hàng ngàn năm lịch sử giáo lý của Ngài vẫn ngự khắp cả mười phương, cứu khắp muôn loài.
Ngày 30 tháng 9 năm 2011, nhân duyên đầy đủ, nay tây du về chiêm bái tu tập tại Tứ động tâm và các thánh tích Phật tại Ấn Độ. Đoàn hành hương chúng tôi chiêm bái cùng khắp các địa điểm nơi thuở xưa Phật thuyết pháp. Với nhãn quan nghề nghiệp của kiến trúc sư, suốt chặng đường lễ bái thánh tích đọng lại trong tôi cảm xúc ấn tượng về công trình Tháp Phật. Chiêm bái bảo tháp mới thấy được uy linh tuyệt đối của Đạo Phật; tư duy đến cấu trúc và công nghệ tôn tạo Tháp mới thấy được thần lực của Đạo thật vô cùng. Đúng với câu “Lớn không gì ngoài”. Một số tháp Phật hiện không nguyên vẹn, chỉ còn lại ít dấu tích nhưng tâm thức của hàng Phật tử khi chiêm bái thì không khác, đấy cũng là giá trị của Chân Lý không sinh không diệt, có trải qua ngàn kiếp mà không cổ; mọi chi tiết dù còn hay mất trên Tháp đã như ẩn như hiện theo thời gian tồn tại đến ngày nay. Mỗi mỗi nơi cũng là Tháp Phật nhưng hình dáng, họa tiết lại khác nhau cũng bởi Đạo cả thâm sâu, lý mầu nhiệm xuất. Nếu chỉ nhìn bằng mắt thôi không thể thấu rõ được, ý tưởng lẫn bố cục của Tháp Phật được tạo ra để chúng ta chiêm bái nhớ ơn Phật rồi tưởng đến các pháp môn, tinh tiến tu hành trực chứng chân lý giải thoát của chư Phật. 
(Hào quang trên Tháp Phật  xuất hiện tại thời điểm Quảng Kiến chiêm bái Thánh Tích)
Sau khi đức Thế Tôn nhập Niết Bàn (T.K5 B.C), các đệ tử, đặc biệt là cư sỹ tại gia, đối với những di vật, xá lợi của đức Phật, sự sùng bái ngày càng phát triển. Chính vì vậy mà tháp (Stupa) để lưu giữ xá lợi Phật được tôn tạo. Vì lòng kính tín tôn thờ đối với đức Thế Tôn mà nền mỹ thuật Phật giáo đã xuất hiện với nhiều phong cách đa dạng và ngày càng phát triển với ba hệ thống như sau : 1- Kiến trúc mỹ thuật Phật giáo Tiểu thừa. (Architecture – Fine art Hinayana), 2-Kiến trúc mỹ thuật Phật giáo Đại thừa. (Architecture – Fine art Mahayana). 3- Kiến trúc mỹ thuật Phật giáo Mật thừa. (Architecture – Fine art Mantra).
Tháp Phật tiếng Sankrit ngữ là Stupa, Hán – Việt là Tốt-đổ-ba. Do đệ tử kính tín và tôn sùng mà Stupa được coi là kiến trúc đặc thù Phật giáo. Trong một quần thể kiến trúc Phật giáo (Già lam, tự viện khuôn viên) thì tháp Phật là trung tâm.
Về cấu trúc của tháp Phật nói chung đều cấu tạo gồm 4 phần: phần ngầm, đế tháp, thân tháp và ngọn tháp. Phần ngầm là một dạng không gian ngầm dưới đất, đây là điều đặc biệt chỉ có ở kiến trúc tháp mà ít thấy trong các kiến trúc đền đài, chùa, miếu, điện gác. Phần ngầm dùng làm nơi cất giữ xá lợi hoặc di vật của Phật, điều này cũng là một nét khác biệt của kiến trúc Tháp Phật ở Trung Quốc, Nhật Bản so với kiến trúc stupa Ấn Độ, vì ở Ấn Độ, di cốt Phật không được giữ dưới đất mà là bên trong tháp, sự biến đổi này có lẽ do ảnh hưởng của truyền thống chôn cất bản địa. Phần ngầm là phần công trình được xây đầu tiên khi xây tháp. Phần ngầm có thể được xây theo hình vuông, lục giác, bát giác hoặc tròn; không gian ngầm thường nằm chìm hoàn toàn dưới mặt đất nhưng đôi khi có phần nằm trên mặt đất, phần phía dưới mặt đất (bán âm bán dương).
Đế tháp là phần tiếp giáp với mặt đất của tháp, đỡ toàn bộ kết cấu phía bên trên. Thời kỳ đầu đế tháp tương đối thấp, trung bình cao khoảng 10 -20cm, càng về sau người ta càng thích xây những đế tháp lớn, cao. Đế tháp được bổ sung thêm một bệ tháp với những trang trí lộng lẫy để cho kiến trúc trở nên hùng vĩ.
Thân tháp là phần chính của tháp. Thân tháp là dấu hiệu để phân biệt các phong cách kiến trúc. Ví dụ dựa vào vật liệu xây dựng thân tháp và thủ pháp sử dụng vật liệu người ta có thể chia thành: tháp gỗ, tháp gạch bên ngoài – gỗ bên trong, tháp lấy cột gỗ làm trung tâm, tháp với trụ gạch chính,…
Ngọn tháp là phần biểu thị cho cõi Phật vì vậy mà có vai trò rất quan trọng. Ngọn tháp thường có dáng thanh mảnh, là đầu chóp của công trình, nơi cố định rui xà, mái nóc và gờ mái, giúp ổn định kết cấu và ngăn không cho nước mưa thấm lọt vào bên trong. Ngọn tháp, bản thân đã là một tháp nhỏ với với 3 phần đế - thân – đỉnh với một cọc ở giữa. Đế thường gồm một bệ đặt trên một nền phẳng hoặc trên nền cánh sen. Trên phần thân của ngọn tháp thường có nhiều cái đĩa, tháp càng lớn thì đĩa càng lớn, số lượng đĩa thường là số lẽ. Trên chồng đĩa là một cái lọng. Trên đỉnh ngọn tháp là một mặt trăng lưỡi liềm và viên đá quý, đôi khi hạt đá quý được trên hoặc giữa một vật trang trí hình ngọn lửa. Đó là những phần kết cấu tiêu biểu nhất của ngọn tháp tuy nhiên ngọn tháp có thể thay đổi tùy theo những thời kỳ, địa điểm và phong cách tháp.

1. Giới thiệu Kiến trúc Tháp Đại Giác (Mahabodhi Temple)
Ngôi đại Tháp đứng sừng sững với chiều cao khoảng 52m, mỗi một cạnh vuông là 15m. Ngọn của Tháp có hình chóp nhọn vươn cao. Cổng vào ngày nay cũng như nguyên thủy nằm ở phía Đông. Mỗi 4 mặt của ngôi Tháp với những tầng Tháp nhỏ và có nhiều góc tường để đặt tượng. Mặt chính có cửa sổ (nhọn ở trên) được mở ra để ánh sáng vào phòng chính. Tầng thứ nhất của ngôi Tháp có những Tháp nhỏ ở mỗi bốn góc như là những mô hình thu nhỏ của Tháp chính. Ngôi Tháp được xây dựng bằng gạch nung và được tô bằng một lớp thạch cao. Phía trước lối đi chính có một cổng vào được khắc chạm tinh xảo. Phía trước cổng vào có một ngôi Tháp nhỏ bằng đá xây rất cân xứng tỉ lệ. Căn phòng chính của ngôi đền nằm ở tầng trệt. Cửa ra vào được làm bằng đá. Tượng Phật lớn mạ vàng với ấn xúc địa tượng trưng cho sự kiện giác ngộ vĩ đại của Đức Phật, được đặt tại phòng chính của ngôi Tháp. Tầng trên có hai cầu thang bằng đá. Chúng ta có thể đi kinh hành vòng quanh ngôi Tháp. Tại 4 góc của tầng này có 4 ngọn Tháp nhỏ làm tăng thêm vẻ cân xứng tuyệt vời của toàn bộ cấu trúc. Hai ngọn Tháp ở phía Tây có điện thờ nhỏ với những hình tượng của Bồ-tát. Hai ngọn Tháp còn lại ở phía Đông với hai cầu thang và bên trong có hai tượng Phật to. Lan can dọc theo hành lang với vô số Tháp nhỏ được khắc chạm hết sức tinh xảo, những tháp ở phía Đông rất đẹp. Bên dưới ngọn Tháp chính ở tầng thứ nhất là một chánh điện rộng với một hình tượng Bồ-tát đặt trên một bệ thờ. Bên ngoài ngôi Tháp với vô số góc tường khắc chạm hình tượng Đức Phật và những loài vật. Hốc tường chính ở vách phía Tây có một tượng Phật rất đẹp, hiếm có được mạ vàng do người Tây tạng. Có thể nhìn thấy ngôi Tháp đẹp nhất từ phía Bắc.
2. Giới thiệu Tháp Phật nhiều tầng mái
(Địa điểm tại Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản)
Kiến trúc của Stupa (Tháp Phật cổ tại Ấn Độ) và tháp cao nhiều tầng mái tại Việt Nam, Trung Quốc và Nhật Bản là có nhiều điểm khác nhau. Tháp Phật tại đây chịu sự ảnh hưởng và kết hợp giữa kiến trúc Tháp cổ và kiến trúc “vọng lâu” (tháp quan sát hay tháp canh quân sự). Điều này được rất nhiều nhà nghiên cứu chấp thuận. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng có thể ban đầu “ tháp” chưa có những chức năng như hiện nay mà có thể có chức năng của một điện thờ hơn là một stupa. Tháp nhiều tầng mái được đặc trưng bởi không gian bên trong được mở ra nhưng Stupa là một kiến trúc hoàn toàn đóng kín và không có không gian bên trong.
Từ thế kỷ V đến thế kỷ VII SCN, có thể xem như giai đoạn hình thành sự kết hợp của điện thờ và một stupa thu nhỏ trên nóc. Khi đó tháp mang cả hai chức năng của điện thờ và stupa. Từ thế kỷ VII, tháp mất dần vị trí chủ thể cho kiến trúc “tự” kiểu sân nhà truyền thống, tháp trở nên trừu tượng và thu nhỏ hơn. Chức năng của tháp có thể là cất giữ xá lợi hoặc các bảo vật, đến thế kỷ VIII việc đặt các hộp thánh tích bên trong tháp trở nên rất phổ biến khắp Trung Quốc và các nước Phật giáo ở Đông Á và Việt Nam. Từ thế kỷ IX tháp còn có thêm chức năng chứa xá lợi của các vị sư, và lùi ra vị trí bên cạnh Tam Bảo, có thể ở phía sau trong khuôn viên chùa.
Trên đây là một giả thuyết về sự biến đổi từ stupa thành Tháp. Ngoài sự biến đổi theo chiều hướng đã xét trên, tháp Phật qua từng giai đoạn lại có nhiều sự biến đổi về phong cách kiến trúc, trang trí, về vị trí xây dựng, về vật liệu xây dựng,.. Các tháp giai đoạn đầu được làm bằng gỗ, đến thế kỷ V thì dần dần chuyển sang xây bằng gạch và đá, bên cạnh việc duy trì kiến trúc gỗ, nhưng hầu hết các tháp dù được xây bằng đá hay gạch đều chịu ảnh hưởng của tập quán xây dựng bằng gỗ. Đến sau này cùng với sự suy yếu của Phật giáo, kiến trúc tháp cũng có chiều hướng đi xuống, không một kiểu kiến trúc mới nào được đưa ra, những mẫu kiến trúc cũ được làm đơn giản hơn so với các giai đoạn trước.



Kết
Tháp Phật dù có thay đổi, xuống cấp theo thời gian nhưng giá trị Chân lý giải thoát của Đức Phật không mảy may vì mới hay cũ, khuyết hay toàn. Cũng như vô thỉ đến nay chúng sinh đau khổ là do tạo ác nghiệp, giải thoát do tu hành. Thế mới biết thiện ác, sướng khổ đều chỉ tại lòng người. Ví như hoa sen sinh trong nước biếc, bùn nhơ không bợn đến hoa đó bởi hoa ở nơi cao nên vật hèn không thể lụy, nương vào chốn tịnh nên loại bẩn khó làm nhơ. 
Vậy hãy cùng chiêm bái Tháp Phật để tưởng tới lời dạy của Tổ Tố Liên phó hội trưởng hội Phật Giáo thế giới năm 1950 nhiệm kỳ I khi đến lễ bái Tháp Đại Giác ở Bồ Đề đạo tràng:
« Ta nay là khách ngoại trần
Đứng trên cõi mộng mấy vần gửi ai
Gửi ai là khách quan hoài
Việc đời muôn sự có rồi lại không
Gửi ai là khách cửa không
Việc đời điên đảo bận lòng làm chi
Gửi ai là khách đắc thì
Việc đời chớ để những gì mỉa mai
Gửi ai là khách lỡ thời
Việc đời bày xóa xóa thôi lại bày
Cuộc đời ai tỉnh ai say
Cảm hoài đọc mấy câu này làm duyên”

(Quảng Kiến – Nguyễn Việt Hồng)

Thứ Ba, 31 tháng 1, 2012

Năm Nhâm Thìn - Con Rồng với Thiên - Địa - Nhân

       
Năm Nhâm Thìn 2012 kính chúc Bạn hữu cùng gia đình Thân Tâm thường được An Lạc, mọi sự được Khinh An, sở cầu được như ý sở nguyện được đồng tâm.

      Trong các sở học Quảng Kiến nghiên cứu có Pháp Thế Gian và Pháp Xuất Thế Gian. Đầu năm mới rảnh rang với chút ít sở học Thế Gian, nay phân tích về Thiên Địa Nhân của năm Nhâm Thìn chia sẻ với bè bạn cùng chiêm nghiệm để cho vạn sự trong năm 2012 được hanh thông, muốn được
thế thời ta phải Khế Thời, Khế Cơ và Khế Vị.
       - Khế Thời là nắm được thiên thời, vận hội.
       - Khế Cơ là hiểu được mình hiểu được người thuộc về Nhân sự.
       - Khế Vị là xét về vị trí lợi thế thuộc về Địa Lý.
    Nói về hai chữ Nhâm Thìn, người xưa luận rằng “Nhâm biến vi vương” tức Nhâm thành Vua còn Thìn là Rồng. Năm 2012 là Rồng làm Vua. Về Ngũ hành năm Nhâm Thìn thuộc hành Thủy (ngũ hành chi tiết gọi là: Trường Lưu Thủy). Hiểu về Trường Lưu Thủy như sau: Dòng nước chảy liên tục, chuyển động không ngừng theo năm tháng không ngừng nghỉ. Dòng nước này vượt qua ghềnh, thác của rừng núi, trải qua hàng vạn dặm trên các châu thổ, khi thì róc rách êm đềm, khi thì gầm thét ào ào như bão tố. Loại Thủy này luôn chảy theo dòng cố định nên để lại hai bên bờ dòng chảy những miền đất đai phì nhiêu làm cho Bình Địa Mộc là các loại cây phát triển phục vụ cho đời sống của con người và vạn vật. Thủy này cần có Đại Dịch Thổ (đất lớn) rắn chắc để cho Thủy tạo được hình dáng uốn lượn và có thêm uy phong. Ngoài ra cũng cần có Kim hỗ trợ, sàng lọc, để cho Thủy càng thêm tinh khiết. Rõ ý xhơn năm Nhâm Thìn thuận lợi thực hiện các công việc có sẵn về Mộc, Đất đai và các ngành nghề liên quan đến kim loại.

Bàn về THIÊN - ĐỊA - NHÂN năm 2012 như sau:
            1. Thiên Văn năm Nhâm Thìn: Chữ Nhâm ra quẻ Đoài (Quẻ thượng kép), Chữ Thìn ra quẻ Tốn ( Qủe hạ kép). Ta có quẻ thiên văn năm 2012 là quẻ Trạch Phong Đại Quá. Quẻ này biến hào thượng và hào hạ. Họ của quẻ Trạch Phong Đại Quá là quẻ Chấn có tính Lục Sát.
Lục sát: Là hung khí. Thể hiện sự thiệt hại, đứt đoạn, mất mát những gì thuộc về chủ thể. Lục sát còn gọi là vãng vong chủ sự hao tán, mất mát sức khỏe suy yếu, sinh khí hao tổn.(http://www.datnhavuon.com/tin/Kien-truc-nha-vuon/Xay-nha-theo-phong-thuy.aspx)
Như vậy năm Nhâm Thìn khí hậu sẽ thay đổi thất thường, Mùa Xuân vẫn có khí thấp Thổ ( ngày ẩm ướt), đầu mùa Hạ xuất hiện khí Kim (ngày trời khô hanh), giữa mùa Hạ vẫn có khí hàn Thủy (mát mẻ, lạnh giá), sang đầu thu vẫn có nhiều gió, và mùa Đông vẫn có ngày nắng nóng như mùa Hạ.
             2.  Địa Lý năm Nhâm Thìn: Chữ Nhâm ra quẻ Khảm, Chữ Thìn ra quẻ Tốn. Địa lý năm 2012 được quẻ Thủy Phong Tỉnh. Quẻ này biến hào thượng ra Sinh Khí, Có họ là quẻ Chấn (Mộc).
Nghĩa của quẻ Thủy Phong Tĩnh: (Thượng KHẢM, Hạ TỐN)
Cách: Giếng khô sinh nước. Việc cũ làm lại đại lợi. Mùa thu, Hạ bất lợi. Mùa Xuân, Đông đại lợi
Nghĩa:Tỉnh là tĩnh, tĩnh lặng, yên tĩnh đợi thời (giếng không thể chuyển tĩnh), không tĩnh mà manh động thì sẽ gặp họa.
Cụ thể về Quẻ thứ 48 trong 64 quẻ này có nghĩa về sự chuyên phục vụ, cống hiến hết mình, làm ơn cho tất cả mọi người. Người học nghệ chưa tinh thông mà đã tiến hành công việc thì hiệu quả không cao rất khó để thành công
             3.   Nhân sự năm Nhâm Thìn: Chữ Nhâm ra quẻ Khảm (Thủy), Chữ Thìn ra quẻ Cấn ( Thổ). Ta có quẻ kép về Nhân sự năm 2012 là quẻ Thủy Sơn Kiển. Quẻ này biến hào thượng và hào Trung ra khí Ngũ Quỷ. Khí ra ngũ quỷ là hung; dễ gặp thị phi khẩu thiệt, gặp những sự quấy rối, phá ngang. Công việc tiến hành gặp nhiều trắc trở, lận đận khó thành.
     Tóm lại xét về Thiên Địa Nhân năm Nhâm Thìn 2012 chỉ được Địa lợi còn Thời và Nhân không hòa. Khi Thiên thời không có thì Địa lợi phỏng có ích gì!. Như vậy vạn sự hanh thông hay không giờ chỉ phụ thuộc vào bản thân mỗi người sống và làm việc hết mình, ra sức hỗ trợ người khác để cho mọi sự được “ tham sinh mà quên khắc”. Cũng như sướng khổ đều tại lòng mình, hãy như hoa Sen sinh trong nước biếc nhưng bùn nhơ không bợn đến hoa bởi hoa ở nơi cao nên vật hèn không thể lụy, nương vào chốn tịnh nên loại bẩn khó làm nhơ.
Quảng Kiến có mấy dòng "Gửi Ta" nay ghi lại đây để cùng suy ngẫm :

Sau này Ta kẻ Vô Thức(*)
Ta sẽ gửi lại cho Ta mấy lời
Gửi Ta nếu đã gặp Thời
Thì Ta hãy nhớ lúc đời chưa lên
Gửi ta nếu kẻ thất thời
Sự đời chỉ được khi Ta hết lòng
Gửi Ta với Bạn long đong
Cuộc đời vốn khổ cự lòng làm chi
Gửi Ta với cả công ty
Làm không cống hiến lấy gì mà ăn
Gửi Ta với những ăn năn
Sống cho ngay thẳng chẳng lo sợ gì
Gửi cho bao sự trên đời
Mau mau An Lạc Ta Người đợi mong.

(*) Vô thức là không còn sự phân biệt đối đãi khi sáu căn tiếp xúc với sáu trần 

Chủ Nhật, 8 tháng 1, 2012

Tu Phật là Tu Tuệ!


       Sau một thời gian nghiên cứu kinh điển Phật học với nhân duyên tham vấn và tham thiền cùng nhiều vị thiện tri thức Quảng Kiến nhận thấy rằng Tu Phật chính là Tu Tuệ. Đầy đủ hơn cả chúng ta thường thấy tu Phật có hai dạng: Tu Phật theo tín ngưỡng, dạng tu này chỉ được Phúc báo. Dạng tu rốt ráo hơn cả là Tu Tuệ, tu tuệ được cả Phúc và Trí. (Đời người khó được nên sớm tu Phật để trau dồi Tuệ Mạng có thể mang theo bất cứ nơi đâu và ở bất kỳ không gian và thời gian nào, vì Tuệ Mạng là bất sinh bất diệt). Xuyên suốt tam tạng kinh điển cũng chỉ để tỏ rõ bốn thâm ý của Đức Phật. Thấu rõ bốn thâm ý này chính là việc hoàn thành Tuệ Mạng của mình, Nay xin mạo muội viết ra:
Thâm ý thứ nhất của Phật: Chân Nguyên của chúng ta với Phật đồng nhất thể. Chẳng qua do vô minh (tính không nhận biết được khổ đau, các loại khổ, nguyên nhân khổ đau và phương pháp diệt khổ của Tứ Đế). Khái niệm đồng nhất thể là sự Bình Đẳng. Bình Đẳng tính trí là trí tuệ không phân biệt, đây là trí tuệ cao nhất.
Thâm ý thứ hai của Phật: Mong chúng ta thấu rõ được Đệ nhất nghĩa đế tuyệt đối để ra ngoài danh tướng. Đệ nhất nghĩa đế là Niệm cái niệm vô niệm, hành cái hành vô hành, nói lời nói không nói, tu cái tu không tu. Có nghĩa là dùng niệm để trừ niệm, dùng hành để ly hành... Tu cái tu không tu tức là tu đến chỗ không tu không chứng.
Thâm ý thứ ba của Phật: Ngài mong chúng sinh thấu rõ Trung Đạo ra ngoài các phép đối đãi. Không bị ràng buộc bởi các phạm trù nhị nguyên ( sống - chết, hơn - kém, thắng- thua, được - mất...).
Thâm ý thứ bốn của Phật: Mong chúng ta thấu rõ được tự tính thanh tịnh tâm theo duyên mà không đổi, không đổi mà theo duyên. Mượn ý thơ của Ngài Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông: "Ở đời vui Đạo hãy tùy duyên. Đói ăn khát uống mệt nghỉ liền..." . Tự tính Thanh Tịnh Tâm ở đây là phép đạt tĩnh trong động tức là lấy Động theo Động để Tĩnh của Thiền Tông.
Nhân ngày Đức Phật thành đạo (ngày 8 tháng 12 âm lịch) Quảng Kiến xin chia sẻ với mọi người bốn thâm ý của Đức Phật sơ sơ như vậy mà cũng chưa chắc đã phải như thế. Với bốn vấn đề quan trọng này xin dùng câu sau để kết:
"Thấy được vấn đề chưa phải là nhìn nhận được vấn đề
nhìn nhận được vấn đề chưa phải là giải quyết được vấn đề." 

Thứ Tư, 4 tháng 1, 2012

Tặng Cao Hữu Dũng

      Cuối năm rảnh rang về Hương Tích vẽ ghi cảnh đài Quan Âm Chùa Thiên Trù. Sáng 30/12/2011 sau khi lễ Phật Quảng Kiến tới Đài Quan Âm Toạ Thiền quán giáo lý của Đức Phật. Nhân duyên đầy đủ có viết mấy câu thơ tặng Bạn Cao Hữu Dũng (con Bố Liên Mẹ Hoa). Nay xin cắt nghĩa sơ sơ như sau:
Nội dung câu số 1:  nói về việc tu hành để thoát khỏi sinh tử luân hồi tức là thoát khỏi ba cõi (Tam giới : Dục Giới, Sắc Giới và Vô Sắc Giới). Nơi Trời, Người, Atula, Quỷ, Súc sinh trú ngụ. Nơi này tuỳ nghiệp gây ra đời trước mà chúng sinh ở đây phải chịu khổ đau sinh, lão, bệnh, tử. Bị thất tình lục dục chi phối (thất tình: tham, sân, si, mạn, nghi, ác kiến. Lục dục: Nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý).
Nội dung câu số 2: Nói về Hậu đắc Trí là trí tuệ Phật có được sau khi tu hành các pháp môn do Phật chỉ bày. Căn cứ vào căn cơ của mình mà thấy được vấn đề, nhìn nhận ra vấn đề và giải quyết vấn đề. Mục đính của trí tuệ này là phá bỏ các Nhân phiền não trong cuộc sống của chúng ta.
Nội dung câu số 3: Nói về các Diệu dụng của các vị Đại Bồ Tát ( Đại Thế Chí bồ tát, Văn Thù sư Lợi Bồ Tát, Địa Tạng Vương Bồ Tát, Phổ Hiền Bồ Tát, Quán Thế Âm Bồ Tát). Các ngài Bồ Tát vì nhân duyên cơ cảm đối với chúng sinh mà có ngài dùng Trí, có ngài dùng lực, có ngài dùng hạnh... để hoá độ chúng sinh. Nhưng dù là Đại Trí, Đại Lực, Đại Hạnh, Đại Nguyện  đức nào trong bốn đức ấy đều phải đặt căn bản trên đức Đại Bi. Đại Bi là căn bản là lẽ sống bởi vì không có Bi tâm thì không có một hạnh nguyện nào đạt được sự hoàn mãn. Cho nên câu thơ số ba nói về Dũng(Lực), Trí, Nguyện Hạnh đều từ Bi tâm mà hoá thành.
Nội dung câu số 4: Nói về Tri Kiến Phật của Kinh Diệu Pháp Liên Hoa. Hình tượng Hoa Sen tượng trưng cho sự thanh khiết, thanh tịnh không ô nhiễm. Diệu Pháp là thật tướng không tách rời khỏi cuộc sống bụi bặm. Trong cõi đời ô trược chúng ta vẫn có thể vươn lên giải thoát hoàn toàn như sen mọc trong bùn tanh mà vẫn vươn lên cao và toả hương. Liên Hoa có tự tâm hiền hoà nghĩa là Tâm bình thường là Đạo. Cuộc sống không chấp vào đối đãi (hơn thua, sinh diệt, xa gần, đến đi...), việc không chấp vào nhị nguyên này chính là chúng ta sống theo lý Trung Đạo của Đức Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật.

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2011

Thien Tru - 01



Hai bài Thơ này Quảng Kiến viết theo thể ngũ ngôn đối ý nhau. Nội dung về Cảnh, Tình, Hình, Ý, mục đích nói về Tam Không của Phật Giáo (Không, Vô Tướng, Vô Tác)

Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Phong Thái Thiền Tông

 
"Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói ăn, khát uống, mệt nghỉ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền."
                                                                   (Sơ Tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà - Trần Nhân Tông)

       Bài Cư trần lạc Đạo của ngài Điều Ngự Giác Hoàng Sơ Tổ phái Thiền Trúc Lâm nói lên gia phong, cốt cách Thiền của Ngài.
       Có một vị Tăng hỏi ngài:
              Gia phong Hòa thượng thế nào?.
       Ngài đáp:  
"Áo rách che mây, sáng ăn cháo, Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà."
Thật sâu sắc! Mặt trời lên cao, những gợn mây trôi lững lờ chỗ dày chỗ trống lỗ chỗ giống như ta mặc chiếc áo rách. Thật hay vì như thế Ta với Trời không khác. Mặc áo rách, sáng ăn cháo chiều tưới hoa và tối uống trà. Vậy là đúng với câu " Bình thường tâm thị Đạo", nghĩa là trong tất cả sự ăn mặc, lao động, uống trà, chư Tổ Trúc Lâm vẫn giữ tâm bình thường, đó là gia phong của ngài.
Theo Lục Tổ Đàn Kinh, chuyện về Thiền sư Bạch Vân Thủ Đoan là vị Tăng nhân phái Dương Kỳ Tông Lâm Tế đời Tống nói với các đệ tử rằng: "Phật Thích Ca có tứ hoằng thệ nguyện là : Chúng sinh Vô lượng thề nguyện độ, Phiền não vô tận thề nguyện đoạn, Phật học vô lượng thề nguyện học, Phật Đạo vô thượng thề nguyện thành. Nay ta cũng có tứ hoằng thệ nguyện. Đó là : Đói thì phải ăn cơm, rét thì mặc ấm, lúc mệt thì duỗi chân ngủ, lúc nóng thì hóng gió mát." Điều này nói về quan điểm tu hành của Thiền Tông. Thiền tông không nhấn mạnh phương thức tu hành mà nhấn mạnh tới thực chất của việc tu hành. Mục đích tu hành của Thiền tông là muốn kẻ tu hành phải quay về với ý nghĩa trọng yếu của tự tính, mà phương thức tu hành là không nên câu nệ vào việc ngồi thiền đọc kinh giản đơn. Cho nên những hoạt động trong cuộc sống thường ngày chính là phương thức tu hành tốt nhất.
    Khái niệm "Kiến tính thành Phật" của Thiền tông cho rằng Phật không phải là một thứ lý luận hay học thuyết mà là một thứ trạng thái của tâm tính, nếu như kẻ tu hành có thể kiến chứng được tự tính thanh tịnh, thì có thể thành Bồ Tát, thành Phật.
   Nhân ngày Vía của ngài Điều Ngự Giác Hoàng Sơ Tổ phái Thiền Trúc Lâm, kẻ hậu học Quảng Kiến theo duyên và ý Thiền của Ngài xin đề mấy câu:

"Tùy duyên đối cảnh không đảo điên
Bỏ hết bao nhiêu nỗi ưu phiền
Ngày nay ta trụ nơi trần thế
Học Tổ Trúc Lâm một chữ Thiền."
                                      (Quảng Kiến-Nguyễn Việt Hồng)

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Trí Tuệ Bát Nhã

      Nhân ngày tôn vinh các bậc Thầy 20 tháng 11 Quảng Kiến có đề mấy câu kính tặng các Thầy của mình nay chia sẻ với bè bạn cùng chiêm nghiệm để cho sự học ngày càng rực rỡ, không phụ công ơn vô lượng của các bậc Đạo Sư. 


      Ở bốn câu kệ này Quảng Kiến nói về hai loại trí: Vô Sư Trí và Hậu đắc Trí hay Căn Bản Trí và Hữu Sư Trí. Trong các kinh điển thường hay nói đến hai loại trí tuệ này. Nói về Trí vô sư tức là nói về trí tuệ tự phát ra khi không có thầy dạy (Sư). Đức Bản Sư Thiền định 49 ngày dưới cội Bồ Đề chứng Quả vị Phật tức là đã có được Trí Vô Sư (không ai dạy mà tự tỏ ngộ). Hữu Sư Trí là trí tuệ có được sau khi đã được Thầy truyền dạy, người học trò nghiên cứu sâu xa (miên mật) các kiến thức đó để tỏ ngộ mọi vấn đề gọi là Hậu Đắc trí. Trong Kinh Duy Ma Sở Thuyết Ngài Bồ Tát Văn Thù đại diện cho Hậu Đắc Trí còn Ngài Duy Ma Cật đại diện cho Căn Bản Trí. 
      Theo Pháp môn của Đạo Phật: Tu Hạnh vô sở đắc là Nhân thì Đại Bát Nhã là Quả. Bát Nhã là trí tuệ của Phật và Bồ Tát. Câu Maha Bát Nhã trong Bát Nhã Tâm Kinh là nói đến Đại trí tuệ huyền diệu màu nhiệm cứu kính của Chư Phật.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát là danh hiệu của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát khi thực hành hạnh Trí Tuệ. Việc rèn luyện trí tuệ này có ba phần.
       1- Văn tự Bát Nhã: Là việc đọc và nghe giảng Kinh Bát Nhã
      2- Quán Chiếu Bát Nhã: Quán tức là nghiên cứu sâu xa ý nghĩa của Kinh. Chiếu là đưa các ý     nghĩa đã quán vào để soi xét bản thân diệt hết thiện ác hữu lậu thế gian, thể nhập vô lậu xuất thế gian.
       3- Thật tướng Bát Nhã: Khi đã quán chiếu nhập Vô lậu xuất thế gian thì thể nhập vào vô lậu thiện Đại Thừa của chư Phật Bồ Tát. Từng bước tu theo Đại Thừa thì nhập vào Thật tướng Đại Thừa. Thật tướng này chính là Thanh Tịnh Pháp Thân Vaira Lỳ Lô Giá Na ( Đại Nhật ).
(còn tiếp)

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Giải Oan Tự

CHÙA GIẢI OAN NƠI ĐÂY PHẬT TRỤ
(1)
Chùa báu nơi đây Phật Bà thường trụ
Giải thoát thập phương vũ trụ chúng sinh
Oan giải, giải oan bỏ hết ưu phiền
Nơi Thiền môn người người an tính thiện
Đây núi cao Chùa hiện cảnh sắc lành
Phật độ trì, chúng sinh hành nghiệp thiện
Trụ thế đưa đò, Phật trụ nơi đây.
(2)
Oan oan, giải giải, oan đâu giải
Thân Pháp không không, Thân pháp không
Không tu, Không chứng, không tu chứng
Vô thỉ Không tâm, không tu Tâm
Không Thân, Không Pháp, không Tâm trụ
Không để đưa đò nên Không trụ thế thôi.
                                                                                  
(Quảng Kiến- Tự Viên Minh)

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Phật Học - Lên Chùa Gặp Phật


      Mây trắng ơi, con đường nào ta đi? Lời bài hát trong phim Tây Du Ký đã và đang chiếu trên truyền hình qua bao thế hệ. Phim được chuyển thể từ kỳ thư của Ngô Thừa Ân với nội dung là câu chuyện thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng. Dùng văn để truyền tải đạo lý giải thoát của chư Phật.
          Con đường nào ta đi? Câu hỏi của Mỹ Hầu Vương, vào một ngày đẹp trời bỗng giác ngộ lẽ sinh tử của cõi đời là vô thường, lập tức từ bỏ tất cả, lặn lội chiếc thân đi tầm sư học Đạo.
          Hôm nay, ngày 19 tháng 6 khác với Mỹ Hầu Vương chưa biết đi về đâu còn Chúng Tôi đã có con đường để tới Hương Tích Tự, Ngôi Chùa tọa lạc trên đỉnh Ngàn Hống, nơi đây với cảnh đẹp xưa nay được mệnh danh là "Hoan Châu đệ nhất danh lam".
         Chúng tôi lên Chùa gặp Phật.(Thường thì tôi sẽ nói là đi Chùa lễ Phật nhưng hôm nay khẳng định với các bạn là tôi lên Chùa gặp Phật.)
          Mỹ Hầu Vương phải cực nhọc chống bè vượt biển tìm Thầy học đạo còn chúng tôi chỉ cố gắng nhẹ ga để không bị bắn tốc độ thôi (hic nhưng lúc về không được đi bằng đường Hàng không (đi mây về gió) mà vẫn chỉ đi đường bộ ). Nhân duyên đầy đủ đồng hành với tôi là cậu sinh viên năm cuối với nhiều hoài bão và thắc mắc. Sau khi gửi xe vào bãi chúng tôi gặp ngay sáu Ông xe ôm chặn đường (tưởng cướp, hóa ra là mời đi một đoạn đường đất nhằm rút ngắn thời gian leo núi ). Nhân việc này nhớ lại trong truyện Tây Du Ký thầy trò Đường Tăng trong chuyến đi thỉnh kinh cũng gặp lục tặc. Thâm ý của hồi truyện kể về sáu tên cướp chính là sáu yếu tố phá hoại tâm thanh tịnh của con người, làm cho mê mờ đi vào tà đạo, xa lìa chính đạo. Đó chính là Thất tình, Lục dục (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục và sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Sáu thứ bui trần từ bên ngoài đột nhập vào tâm con người thông qua lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Theo duy thức học, lục căn gặp lục trần sinh ra lục thức, làm cho tâm con người đối đãi thị phi theo kiểu nhị nguyên. Quay lại câu chuyện khi giáp mặt lũ cướp Tôn hành giả khẳng định vai trò của mình: “Ồ, các ngươi là sáu thằng giặc cỏ, không nhận ra người xuất gia này là chủ của các ngươi sao mà lại dám chặn đường?”. Như chúng ta đã biết con người là hình ảnh của hai cuộc đời. Không chế ngự được thì lục căn sinh lục dục (lục tặc). Nếu chế ngự được thì lục tặc trở thành lục thông là sáu món thần thông. Cụ thể như sau:
    Thiên nhãn thông: tăng khả năng nhìn của mắt, không bị trở ngại bởi khoảng cách, chướng ngại vật, thậm chí còn nhìn xuyên thời gian, nhìn thấy những sinh vật ở thế giới khác. Cơ sở khoa học của Thiên Nhãn Thông là: bình thường con người chúng ta chỉ nhìn thấy những sắc chất có quang phổ từ màu đỏ đến màu tím. Nhờ luyện tập thiền định, hoặc một phép rèn luyện tinh thần nào đó, sóng não của chúng ta mạnh lên, có thể "bắt sóng" được những sắc chất ở tần số khác, ví dụ như sóng siêu ngắn (một loại sóng có thể xuyên qua vật cản, dùng trong thông tin vũ trụ), vì vậy người đạt Thiên Nhãn Thông có sức nhìn không hạn chế.
    Thiên Nhĩ Thông: tăng khả năng nghe của tai, không bị trở ngại của ngôn ngữ, giống loài, có thể nghe được mọi âm thanh trên thế gian, hiểu được tiếng muôn loài. Cơ sở khoa học tương tự Thiên Nhãn thông.
    Tha Tâm Thông: khả năng biết được suy nghĩ của kẻ khác. Cơ sở khoa học của Tha tâm thông: bộ não con người ví như một đài thu và phát sóng, mọi tâm tư, ý nghĩ của chúng ta đều tỏa ra xung quanh dưới dạng sóng. Nhờ tu tập Thiền định, hoặc một phép luyện tinh thần nào đó, chúng ta cải thiện được sức thu của não bộ, thì khi đó ta có thể thu được sóng não của người khác và hiểu họ đang nghĩ gì.
    Thần túc thông: khả năng nhìn thấy được trăm ngàn kiếp quá khứ của mình và người khác. Cơ sở khoa học của Thần Túc thông: khoa học nhân điện ngày nay đã chụp được luồng điện trường xung quanh con người, mà trong tôn giáo gọi là "Hào quang", gồm 7 tầng, phản ánh tính cách, tình trạng sức khoẻ, suy nghĩ của người đó. Đặc biệt tầng thứ 7, nằm ở ngoài cùng, lưu giữ ký ức của người đó không chỉ từ thuở nhỏ mà từ vô lượng kiếp quá khứ. Người đạt thần túc thông có thể đọc hiểu tầng hào quang này.
    Thần cảnh thông: khả năng di chuyển không hạn chế: phi thân, di chuyển tức thời. Thậm chí còn có thể tàng hình, hiện thân to, nhỏ tùy ý. Cơ sở khoa học của Thần cảnh thông: con người vốn dĩ được tạo thành bởi vô số các tế bào. Khi luyện tập sức mạnh ý chí đến mức có thể làm chủ chính mình, làm chủ từng bộ phận trong cơ thể, thì việc làm cho cơ thể nhẹ nhàng, co nhỏ, phình lớn.. là điều hoàn toàn có thể. Nói thêm về khả năng di chuyển tức thời: khoa học ngày nay thừa nhận có sự tồn tại của chiều không gian thứ 4, người bước vào chiều không gian này có thể đi đến bất cứ đâu trong không gian 3 chiều (là nơi ta đang ở).
    Lậu tận không: khả năng làm chủ bản thân tuyệt đối, ý nghĩ được kiểm soát, không còn vọng tưởng (suy nghĩ vẫn vơ), không còn nghi ngờ, không bị nhiễm ô dù trong hoàn cảnh nào, tâm thức tĩng lặng, xóa bỏ mọi nghiệp chướng (tốt hoặc xấu). Người đạt Lậu Tận Thông sau khi chết (gọi là Viên Tịch hoặc Tịch Diệt) sẽ không còn luân hồi sinh tử, sẽ ở trong một trạng thái vô cùng trong sáng, thoải mái, mà Nhà Phật gọi là Niết bàn.

    Lậu tận thông là mục đích cuối cùng của bất cứ người xuất gia theo Đạo Phật nào. Năm thần thông kia (ngũ thông) thì quỷ (tà giáo), thần(người có phép mầu), tiên(người sống lâu), hoặc phàm phu(là chúng ta đây) chỉ cần luyện tập đều có thể đạt được. Còn bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Như Lai mới có Lậu Tận Thông.
          Đồng bọn với sáu tên giặc cướp trong phim Tây Du Ký là Bảy con Yêu tinh, đối với bọn yêu nõn nà này cách xử lý của Tề Thiên cũng khác hẳn: “Hành giả nghĩ: Ta mà đánh chúng cả lũ toi mạng hết, như thế đáng thương lắm” Bảy con yêu nữ có loại vũ khí rất đặc biệt mà Tề thiên nhận định về loại vũ khí này như sau: “Vật cứng còn có thể đánh đứt, thứ này mà mềm đánh chỉ lún xuống thôi. Khéo nó biết, nó quấn chặt lấy mình, lại hóa dở” Đây là sợi tơ của bảy con nhện tinh; sợi tơ nhu nhuyễn mềm mại mà khó dứt. Ý ở đây đã rõ: tơ là tơ tình, không thể dứt ngay được. Việc chế ngự cái tình cảm con người không phải chuyện dễ, vì con người ưa luyến tiếc, khoan nhượng với tình cảm bản thân.
          Thất tình và lục dục, cấu kết nhau nội công ngoại kích, là mười ba con ma phá hoại tâm thanh tịnh, gây phiền não chướng ngại cho chúng ta. Đấy là:
Thất tình lục dục sớm trừ xong
Luyện tập ngày đêm sửa tấm lòng
Khử diệt thất tình an tính thiện
Tu hành phải để chí không không
(Đại thừa chân giáo)
Trở lại nội dung câu chuyện cuối cùng lũ cướp bị lão Tôn giết cả. Đây cũng là điều mà Quảng Kiến đã lược ghi ở Hậu Học 01 rằng với người tu Phật hiếu sát hơn hiếu sinh. Sát là dẹp là diệt các niệm bất thiện khởi lên hại mình hại người cả trong lời nói ý nghĩ đến hành động.
Có đi ắt có đến. Anh em chúng tôi cũng tới đường cùng của xe ôm.Lên chùa gặp Phật phải tự thân minh đi, không nhờ ai giúp được.
Hồi sau: Đường lên chùa gặp Phật

Chủ Nhật, 30 tháng 10, 2011

Số 08 - “CHÂN NGÔN” CỦA NGƯỜI LÀM QUAN


Câu chuyện lại trở nên sôi nổi hơn, sau “Chân ngôn” cầu-làm-quan: “KHỐNG, CỐNG, XUNG, PHỦNG, KHỦNG, RỖNG” tiếp theo chân ngôn làm-quan lại được tôi đưa ra để làm đề tài cho việc luận đàm. Những chữ này được đúc rút của người xưa để lại. Tùy thời "vât-dụng" khác nhau nhưng ý nghĩa thì không thay đổi.
Chân ngôn sáu chữ của người làm quan: “KHÔNG, CUNG, BĂNG, HUNG, LUNG, LỘNG”. 
Nghĩa của sáu chữ này như sau:

1. Không: Có nghĩa là rỗng, cái chữ rỗng này là hiểu trên mặt hình tướng, nghĩa là chưa phát lộ là quyết hay không quyết định gì cụ thể. Một là trên văn tự: phàm những văn bản trình báo cấp trên, ra thông báo, đều chỉ là những lời lẽ chung chung, trống (để chỗ cho họ góp ý) rỗng (là chưa quyết để xin ý kiến cấp trên), trong đó kỹ năng viết phải rất khéo; tôi khó có thể nói kỹ, nếu tới các cơ quan hành chính, đọc các văn bản quyết định dán trên tường sẽ hiểu hết thôi. Hai là, khi làm việc đều linh hoạt sống động, nghiêng sang tây cũng được, ngả sang đông cũng xong, có khi làm như sấm vang bão táp, thật ra bên trong lại tìm đường tháo lui (uống tới tấp xong viện cớ có việc với quan cao hơn trong bàn tiệc), nhân tình thế thái nếu thấy tình thế không lợi thì có thể quay người đi theo con đường khác, quyết không thể trói buộc bản thân mình.
2. Cung: Có nghĩa là cung kính, khép nép, so vai, rụt cổ chia làm 2 loại trực tiếp và gián tiếp. Trực tiếp là nói với cấp trên, gián tiếp là nói với bạn bè, thân thích, lính của cấp trên và các ông nọ bà kia. (Mục tiêu thể hiện cái Lễ tướng của mình)
3. Băng: gọi là sự bệ vệ, một chữ trái nghĩa với chữ “Cung”: Nếu nói với cấp trên và dân chúng thì chia làm hai cấp: Một là, biểu hiện bề ngoài tỏ ra là một nhân vật oai nghiêm, không ai xúc phạm được; hai là, trong trò chuyện tỏ ra đầy kinh sách, thông hiểu đại tài. Nói về chữ “Cung” đối với bát cơm trên mặt đất thì phải coi là trên mặt đất (có nghĩa là thấy sao nói vậy, tránh bình phẩm trái quan điểm với sếp), Khi quyền của bát cơm không thuộc về cấp trên; khi quyền cái bát cơm thuộc cấp dưới hoặc dân chúng (truyền thông, số đông), ta lại đổi “Băng” thành “Cung”. Đạo lý của ta phải tỏ ra linh hoạt, vận dụng khéo léo và chỉ nằm trong suy nghĩ mình biết màthôi (lợi chia còn mưu thì bất lộ).
4. Hung: Chỉ có thể đạt được mục đích của ta khi bắt người khác quy phục (nắm điểm yếu hoặc nắm nhu cầu, dù phải bán nhà bán xe cũng không được oán ghét nhưng phải chú ý một lớp vỏ nhân nghĩa đạo đức, phải phủ trên chữ “Hung”.
5. Lung: Tức là tai điếc: “Ai chê cười chửi mắng cũng mặc, làm quan ta cứ làm” nhưng trong người điếc còn hàm nghĩa người mù nữa, nếu trên văn bản, đơn từ có tỏ ra bực tức thì nhắm mắt không cần xem. Phải lấy tĩnh chế động vì khuấy thì bùn nổi, quậy thì bụi mù không tốt. Giải quyết thì nên dùng kế rút củi đáy nồi" nồi nguội rồi thì vô tư úp.
6. Lộng: Tức là làm Tiền. Rồng bay đến đây kết huyệt, mười một chữ đặt ra từ để làm quan đến làm quan ở trên đều phải nhằm vào chữ này. Chữ “Lộng” và chữ “Tống” trong cầu làm quan là hai mặt đối chiếu nhau, có biếu thì có móc. Phải hết sức chú ý chữ “Lộng” này là trong công việc làm sao phải chạy được việc mới thành công, có khi không được việc dù phải móc túi ra cũng không sao; nếu được việc móc bao nhiêu cũng không cần khách khí làm gì. Đó là để cho quan trường được mạnh tiến thì đều phải nhờ ở chữ "Lộng" cả.
    Tôi chẳng qua mới hiểu thô thiển mười hai chữ trên đây, còn nhiều nghĩa tinh vi của nó chưa thể phát huy được. Những bậc làm quan có chí, có thể theo đó tìm ra bí quyết, xin tự nghiên cứu lấy.

Thứ Hai, 24 tháng 10, 2011

Phong Thủy - Tạo dựng Bất Động Sản


   Xưa, những gia đình, dòng họ danh gia vọng tộc, khi tìm đất cất nhà, phong thủy là vấn đề đầu tiên được xem xét. Vị trí lựa chọn là nơi có dòng nước uốn quanh, đằng sau xa xa có đồi hoặc núi án ngữ. Ngôi nhà gắn với thiên nhiên, có màu xanh cây lá, có dòng nước mát dịu, nhà tôn cảnh, cảnh làm nổi bật nhà. Địa thế làm nhà như vậy là để đón nhận khí thiêng của sông núi, tinh hoa của mặt trời mặt trăng. Không gian khoáng đạt thuận lợi cho việc tu tâm dưỡng tính, rèn luyện ý chí.

Nay, điều kiện tìm đất tốt để  tạo dựng bất động sản có giá trị để ở và kinh doanh phải làm thế nào khi cảnh đất chật người đông. Xã hội phát triển nghiêng về vật chất, con người nhìn thế gian thường dựa trên giá trị của từng sự vật. Việc đầu tư vào bất động sản nếu chỉ căn cứ vào quan điểm của cá nhân mà phán đoán và đánh giá thì sẽ dễ mắc sai lầm. Muốn đánh giá chính xác giá trị của một bất động sản cần phải phân tích dưới nhiều góc độ khác nhau theo những quan điểm khác nhau. Việc lựa chọn quan điểm nào là vấn đề vô cùng quan trọng, đặc biệt là để tránh tổn thất khi quyết định đầu tư.
            Ở bài viết này chúng tôi giới thiệu tới độc giả một số quan điểm của phong thủy trong việc lựa chọn địa điểm đầu tư để từ đây độc giả có thêm tiêu chí cho việc tạo ra những bất động sản có giá trị.
            Theo Phong thủy học để tìm được vị trí và làm thế nào để biết chúng có giá trị đầu tư hay không đấy là việc phải nắm được vận_khí địa điểm. Cuộc đất (địa điểm) tốt là nơi có nhiều Sinh Khí, Ở góc độ Phong thủy bất động sản Sinh khí được sinh ra khi có sự điều hòa giữa Thiên, Địa, Nhân gọi là tam tài. Quan niệm của người xưa khí có ba loại là Thiên Khí, Địa Khí và Nhân Khí có ảnh hưởng tưng ưng theo bảng sau:
THIÊN KHÍ
ĐỊA KHÍ
NHÂN KHÍ
THIÊN VĂN
ĐỊA LÝ
NHÂN SỰ
THỜI GIAN
KHÔNG GIAN
NHÂN GIAN

Bất động sản với Thiên khí là bàn đến thiên văn đến thời gian chính là nói đến Thời Vận.
Bất động sản với Địa Khí là nói đến yếu tố Không Gian bởi vì nếu muốn kinh doanh thành công thì phải có địa điểm kinh doanh tốt.
            Bất động sản với Nhân Khí là nói đến yếu tố con người, giá trị bất động sản thay đổi theo mục đích sử dụng.
            Như vậy một địa điểm tốt để đầu tư bất động sản phải đáp ứng được sự hài hòa của Thiên Địa Nhân, ở đây chúng tôi đưa ra bốn yếu tố quan trọng theo phong thủy học bất động sản mà các nhà đầu tư phải cân nhắc trước khi đưa ra quyết định đầu tư:
1.      Phong Thuỷ (Yếu tố về địa lý): Đầu tiên Là việc xem xét Thủy Khẩu, sau đó tìm hiểu hình thế của đất rồi quan sát hình dáng công trình xung quanh, xem xét hệ thống cấp thoát nước. Cuối cùng là quan sát núi và mặt nước
2.      Môi trường kinh doanh(Yếu tố sinh lợi): Căn cứ vào mục đích ngành nghề kinh doanh mà lựa chọn địa điểm phù hợp nhằm giảm chi phí để có lợi thế cạnh tranh.
3.      Văn hóa (Yếu tố nhân tâm): Khổng tử nói rằng: “ Nơi có nhân tâm hiền hòa là nơi đất tốt”. Khi tìm nơi sinh sống, nếu không chọn nơi có phong tục tốt thì không những chỉ phương hại đến bản thân mà còn tiêm nhiễm thói hư tật xấu cho con cháu.
4.      Cảnh quan (Yếu tố Sơn Thủy): Núi sông làm cho tinh thần thoải mái và tâm tính ôn hòa.
Như vậy cuộc đất tốt phải được xem xét dựa trên điều kiện tổng quát lẫn đặc thù. Điều kiện tổng quát là điều kiện mang tính lý luận chứ không rõ ràng cụ thể như điều kiện đặc thù. Theo điều kiện tổng quát thì đất tốt là địa điểm hội tụ đầy đủ các yếu tố mà chúng tôi gọi là điều kiện của Tứ Thần Sa (Thanh Long, Bạch Hổ, Chu Tước, Minh Đường). Nếu theo quan sát thì bên trái là Thanh Long, bên phải là Bạch Hổ, phía trước là Chu Tước, phía sau là Huyền Vũ. Vì thế mà phong thủy âm trạch có câu: Tả Thanh Long , hữu Bạch Hổ, thượng Chu Tước, hạ Huyền Vũ.
Tứ thần sa thế nào là hợp cách?.
Phong thủy xưa quan niệm Thanh Long phải uốn mình ( Long chầu), Bạch Hổ thuần phục (Hổ phục), Chu tước bay lượn, Huyền vũ cúi đầu. Tất cả để tạo ra thế Tàng Phong, cách cục Tích Thủy.
Ngày nay tiêu chí cho một địa điểm tốt là nơi đáp ứng đầy đủ các điều kiện cần thiết cho từng loại ngành nghề và người sử dụng. Giá trị của bất động sản sẽ thay đổi tùy theo mục đích sử dụng. Con người là một yếu tố cấu thành nền tảng Phong Thủy do đó khí vận của người và đất phải hợp nhau. Nếu đất mang khí Thủy và người mang khí Hỏa tương khắc thì sẽ không tốt.
Khi tìm kiếm đất để xây dựng và đầu tư bất động sản điều quan tâm hàng đầu phải là ‘Ngũ sát tiễn địa’ bao gồm : Mộc sát, Phong Sát, Thổ sát, Thạch sát và Thủy Sát. Trong đó Phong sát là gió mang sát khí thuộc Hỏa. Nếu con người gặp phải phong sát thì có thể bị trầm cảm, còn nơi nhận phong sát sẽ dễ xảy ra hỏa hoạn. Thủy sát  là hệ thống thủy lợi và giao thông nếu bố trí không đúng cách sẽ gây ra sự thoát khí.
Bài toán đặt ra nếu không có điều kiện tìm được các cuộc đất tốt thì chúng ta phải làm gì để các bất động sản này có giá trị hơn theo quan điểm phong Thủy?
Thật vậy, ngày nay không có địa điểm nào hội tụ được đầy đủ tất cả các yếu tố và điều kiện theo lý thuyết Phong Thủy truyền thống. Vấn đề đặt ra là phương cách sử dụng phải bổ khuyết và làm vượng các ưu điểm của đất. Phong thủy học gọi phép làm khí vận yếu mạnh lên và quá mạnh thì phải nén xuống là phép Vượng Khí và phép Ngã Khắc.
Phép Vượng Khí phong thủy dựa trên sự kết hợp tương hỗ giữa yếu tố văn hóa với núi, sông và hướng được phân thành bảy loại như sau: Long Mạch,Tàng Phong,Tích Thủy,Hình dáng bố cục,Che lấp hung tướng, Ngừa hỏa khí, Thủy Khẩu.
Ngoài ra việc thiết kế xây dựng kiến trúc tại một địa điểm sẽ làm thay đổi khí vận ở nơi đó, nếu chọn sai vị trí hay áp dụng quy mô, hình thái, nguyên liệu không phù hợp sẽ tạo ra các sát khí. Phương pháp khả thi là dùng phép vượng khí và ngã khắc theo khí. Đây là cách áp dụng các lý thuyết nền tảng về Dịch học với thuyết Âm Dương, Ngũ hành. Tức là dùng thuyết ngũ hành tương sinh tương khắc, tịnh âm tịnh dương, âm dương giao hòa, cực âm, cực dương, thiếu âm thiếu dương để vượng khí.
 (Trên đây, chúng tôi đã đưa ra một số khái niệm cơ bản của Phong thủy học trong bất động sản. Ở bài viết tiếp theo chúng tôi sẽ giới thiệu về các phép Vượng Khí Bất động sản dựa vào Kiến trúc, Tượng, Vật…)
Bài đăng trên tạp chí Thế Giới Ảnh số 111 năm 2011 của VCCI

Bút giả: KTS. Nguyễn Việt Hồng