Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh dịch. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Kinh dịch. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 28 tháng 11, 2024

Thư trả lời của Hậu học Quảng Kiến về: Thật đức và hư đức của các pháp




Thưa Thầy,


Trong bộ luận Đại Trí Độ, có nói về hai phương diện của một pháp: “sở hữu tính” (tính riêng biệt) và “tột sở hữu tính” (tính phổ quát, bản thể tối hậu). Cũng vậy, các kinh Duy Thức và Lăng Già dạy rằng, “tự chứng phần” của mỗi chúng sinh là riêng biệt, tốt xấu tùy theo nghiệp duyên huân tập. Tuy nhiên, "bản thể chân thật không” - lại đồng nhất nơi tất cả. Đây chính là ý nghĩa của “Duy Thức Tính”, cũng là “tột sở hữu tính” mà Bồ-tát Long Thọ đề cập từ trong bộ Bát Nhã.


Ví như nước có tính ướt, lửa có tính nóng - đó là “sở hữu tính”. Còn "tột sở hữu tính", tức tính chân không, là điều mà kinh Lăng Nghiêm giảng:


Tính thủy chân không, tính không chân thủy;

Tính hỏa chân không, tính không chân hỏa.


    Đây là nghĩa sâu của lý “không”, mà Thầy cần quán chiếu kỹ lưỡng hơn để nhận ra đạo lý viên dung trong pháp giới.


    Nay xin bàn chi tiết về thật đức và hư đức của ngũ hành (Kim, Hoả, Mộc, Thổ, Thuỷ). Thật đức hay hư đức chính là cảnh giới mà mỗi người cảm nhận tùy theo nghiệp thức. Từ tướng phần (cái được thấy) thông qua kiến phần (cái thấy) mà hình thành tự chứng phần (cái biết riêng của mình) – tức là cái “ngã” của mỗi chúng sinh. Cái ngã này, tùy theo chủng tử huân tập nơi A-lại-da thức, chiêu cảm ra cảnh giới tốt hoặc xấu.


Thật đức là pháp thuận duyên, giúp tăng trưởng quả thiện. Ngược lại, hư đức là pháp trái duyên, khiến nhân thiện gặp trở ngại, hoặc dẫn đến quả xấu. Như vậy, tốt hay xấu không nằm ở pháp, mà ở cách vận hành của các pháp trong sự tương tác nhân quả. Đây cũng chính là ý nghĩa của “bất cấu bất tịnh” trong Bát Nhã.


Cụ thể:

Thuỷ biểu hiện tín và bất tín, hình thái là hãm hoặc tụ.

Hoả biểu hiện trí và ngu, thật đức là tráng lệ, hư đức là trống rỗng.

Địa biểu hiện nhân và bất nhân, thật đức là thuận, hư đức là nghịch.

Kim biểu hiện nghĩa và bất nghĩa, thật đức là kiện (mạnh), hư đức là nhược (yếu).

Mộc biểu hiện lễ và bất lễ, trạng thái là linh động hoặc trì trệ bất hòa.


Ngũ hành thuộc về ba đại trong bảy đại mà Đức Thế Tôn giảng trong kinh Thủ Lăng Nghiêm: Địa đại, Thuỷ đại, Hoả đại. Trong Địa đại có ba yếu tố: Thổ, Kim, Mộc. Tiếp đến là Không đại (là vô tướng của ngũ hành) và Phong đại (sự vận động của ngũ hành). Hai đại cuối là Kiến đại và Thức đại, thuộc về tâm pháp, 5 đại trước thuộc về sắc pháp.


    Người tu, khi bắt đầu cần thấu rõ bản chất, tính, tướng, dụng, của ngũ hành, tiến lên quán thông bảy đại, dần đạt đến viên thông pháp giới. Theo kinh Viên Giácba đại đầu giúp phá ngã chấp nơi sắc pháp, còn bốn đại sau phá pháp chấp nơi tâm pháp. Đây chính là mục tiêu tối hậu của sự tu tập – vượt thoát cả tướng hữu vi lẫn vô vi, đạt đến chân như bình đẳng.


Lời lẽ nơi đây khó trọn ý, mong Thầy quán xét thêm và chúng ta sẽ cùng nhau bàn rộng hơn vào dịp khác.


Kính bút.

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2024

Thiền Dục giới (Luân Xa)

1. Thiền Dục giới:

(Thiền dục giới là thiền ở các cõi còn ái dục như người, trời, thần, quỷ )

Là các phép tu luyện như ăn kiểu riêng, uống kiểu riêng, chế thuốc bổ kiểu riêng, luyện tâp bùa chú riêng... nhằm mục đích có các phép thần thông ở Dục giới. Trong các phương pháp ấy, hiện nay phổ thông nhất là phép tu luyện Luân-xa. Luân xa là các huyện đạo trên cơ thể người. Tất cả có 12 luân xa tương ứng với 12 giờ trong một ngày trên cơ thể. Luyện khai mở Luân xa chủ yếu là các huyệt ở phía trước cơ thể, có 7 luân xa gồm: 

- Luân xa số 1 gọi là huyện Hội âm, thành tựu hay gọi là khai mở thì đắc phép Thần Túc Thông.

- Luân xa số 2 là huyện Đan Điền (cách rốn 2 đốt ngón tay ) khai mở được luân xa này thì đắc phép Túc mệnh Thông.

- Luân xa số 3 là huyệt Đản Trung (giao giữa ngực và hai núm vú ), khai mở được thì thành tựu phép Tha tâm thông.

- Luân xa số 4 là huyệt Thiên Đột (ở hõm cổ ) thành tựu thì sẽ đắc pháp Thiên Nhĩ Thông.

- Luân xa số 5 là huyệt Ấn đường (giao giữa hai lông mày và sống mũi ) khai mở huyệt này đắc phép Thiên Nhỡn Thông.

- Luân xa số 6 là Huyệt Cự Khuyết (ngay lỗ rốn ) Khai mở được luân xa này thì hỗ trợ tăng thêm cho phép Thần túc Thông.

- Luân xa số 7 cuối cùng là huyệt Bách hội (giao giữa hai lỗ tai và đường đỉnh đầu chính giữa) thành tựu Túc Mạng Thông.

Việc tu luyện khai mở 7 luân xa này nếu ăn thịt uống rượu và ăn hành tỏi hẹ kiệu là ngũ vị tân thì sẽ bị mắc sai lầm mà người ta thường nói đùa là " tẩu hoả nhập ma", cụ thể sẽ mắc bệnh hoang tưởng hoang đường, lúc nào cũng tưởng mình là thần là thánh cuối cùng sẽ chết vì hoang tưởng đó, bệnh thứ hai là bị kích thích dâm dục quá độ thành ra cuồng loạn dâm.

                  Trong các bộ kinh Trung bộ, trường A hàm, tăng nhất A hàm, Tạp A hàm và các bộ kinh Đại Thừa Đức Phật có kể lại câu chuyện có một nhóm người tu khai mở luân xa thành công đã bay được trên trời, thế nhưng một số ông tiên (Ấn độ gọi là các vị thuật sỹ) có dặn rằng: Khi đang luyện các phép bay trên trời thì đừng sinh tâm tham tài sắc danh thực thuỵ là ngũ dục thế gian, nếu sinh ra sẽ bị mất phép thần thông. Ví dụ vào đời quá khứ có ông Vua bắt tất cả các cung nữ khoả thân múa cho ông ấy xem, ông ấy vỗ tay có vẻ sung sướng lắm. Lúc bấy giờ có một đoàn người đã luyện tập bay được trên trời là đã thành tựu phép mở luân xa Thần túc thông. Bay qua đó sinh tâm thèm khát ái dục lập tức bị mất phép thần thông ngã từ trên cao xuống nặng thì bể đầu chết nhẹ thì gãy hết chân tay tàn phế. 

                  Đó là cái đau khổ thứ nhất của thần thông dục giới là phép khai mở luân xa. Hiện nay bên Tây tạng gọi phép luyện này là "suối nguồn tươi trẻ". Cái đau khổ thứ hai là sinh ra loại người tu khổ hạnh khoả thân trần truồng đi ăn xin, bọn này gọi là phái tu Ni can đa, thuộc lục sư ngoại đạo. Vì trần truồng nên suốt đời bị ruồi muỗi rắn rết đốt nên rất nhiều người bỏ mạng oan uổng hoặc bị thương tật hoá thành bệnh thần kinh.

                  Đó là hai cái đau khổ của thiền định Dục giới.

                  Đức Phật có nói: thân chúng sinh đã bất tịnh thì các luân xa cũng bất tịnh như thân chúng sinh. Tại làm sao lại dựa vào cái uế tạp để tu luyện. Dù có thành tựu thì khi cái thân tan rã thì cái thần thông đó ko còn chỗ dựa cũng mất theo đến đời sau lại phải tu luyện lại từ đầu. Gọi là cực kỳ dại dột. Cũng như luyện nhân điện, có người cũng biết được chuyện này chuyện kia ở tương lai. Có ngươi bị sét đánh, sau khi bị sét đánh thì có luồng điện trong người thì biết được một số chuyện nhưng phải chịu một số bệnh, hoặc là mù loà, hoặc là ốm yếu. Bình thường thì bị bệnh thần kinh, thỉnh thoảng nói ra được một số chuyện người ta nghe người ta thích thì người ta cho ít tiền đồ ăn nhưng suốt đời nghèo khổ có cuộc sống không bình thường, thậm chí mù mắt như bà Vanga người Bungary. Như vậy luyện năng lượng cũng là một phép luyện luân xa, được thì ít mất thì nhiều. Phật dạy những người như vậy là vô cùng dại dột, cực kỳ ngủ si.

                                    Trên đây gọi là phép tu thiền định Dục giới, trong kinh Thủ lăng nghiêm thuyết là 10 phép tu tiên. Phép tu dựa trên sự giả dối của các huỵệt đạo luân xa thì cái quả cũng là giả dối. Mà giả dối là đau khổ.

...còn tiếp...

Phần 2 ( Thiền sắc giới)


(Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng)

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024

ĐỊA LÝ HỒ THỦY TIÊN THÀNH PHỐ HUẾ



NĂM RỒNG BÀN VỀ RỒNG...ở Huế

Huế có một con rồng được xây dựng trên hồ Thủy tiên trong đồi Thiên an. Hiện nay đang là "linh vật" được giới trẻ chụp hình bắt trend Giáp Thìn. Năm 2016 tờ báo CNN của Mỹ đã giới thiệu về một địa điểm ma mị vô cùng đặc sắc mang tên Hồ Thủy Tiên. "sau bài báo này, khu du lịch bị bỏ hoang này lập tức thu hút khách nước ngoài đến check in vẻ đẹp đầy ma quái, rùng rợn của công viên".
Cảnh quan Hồ Thủy Tiên trước khi xây dựng vốn là một khung cảnh tự nhiên tuyệt đẹp bao bọc, với hồ nước trong vắt chưa khi nào bị cạn, nằm trên đồi Thiên An - nơi được mệnh danh là " Đà Lạt xứ Huế".
Bài viết này nhằm trả lời câu hỏi của một số người bạn về việc tai sao sau khi xây dựng con rồng trên hồ Thủy Tiên thì hồ thường xuyên bị cạn nước?.
Giới hạn ở bài nghiên cứu này chúng tôi căn cứ vào cách xem Thiên văn, Địa lý và Nhân sự là những vấn đề với các khái niệm có thể cùng nhau chấp nhận và thấu hiểu, gọi là dựa trên khoa học thường nghiệm.
Xét về thiên thời năm xây dựng công viên hồ Thủy Tiên từ Canh Thìn đến năm Tân Tỵ (2000-2001) ứng với câu sấm ký của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“ Rồng vào bể cạn có ai hay
Rắn mới hai đầu khó chịu thay…”
“Rồng” ứng với xây dựng con rồng bê tông, “bể cạn” ứng với năm Canh Thìn thuộc kim khí ứng với đầm cạn nước.
“Rắn mới” ứng với năm can chi Tân Tỵ (năm dương lịch 2001, Tân là mới, Tỵ là rắn).
Bài kệ như là dự đoán sự tướng nước trong hồ khô cạn và việc kinh doanh hoang tàn của dự án.
Tuy nhiên Thiên thời vốn xoay vần, nên hết xấu sẽ đến tốt, tại sao qua cái vận khó (22 năm kể từ ngày khởi công) mà vẫn chưa thông, chúng ta cần xét thêm vấn đề ở Địa lý.
Thông qua bình đồ tính toán (hình kèm theo bài), Hồ Thủy Tiên có hướng (trục mạch chảy) từ Tây Bắc xuống Đông Nam là cách vượng thủy khí, thủy sinh mộc nên xung quanh hồ xưa nay cây cối rất tươi xanh. Tại hai đầu trục là vị trí đắc địa và vượng địa của hồ. Không hiểu sao lại xây dựng con rồng ở vị trí long mạch (vượng địa) hướng Đông nam. Và ở vị trí Tây Bắc (đắc địa) thuộc Thủy khí lại xây dựng công trình cao có khối tích Thổ khí tạo ra sự xung đột về mặt Địa lý.
Vạn vật vốn vô tình, chỉ có tâm người hữu ý, ngoài Thiên thời và Địa lợi yếu tố Nhân hòa rất quan trọng để cho cấu trúc các công việc hay dự án được hoàn chỉnh và phát triển bền vững. Nhân hòa lại ở biệt nghiệp riêng của chủ sở hữu. Phần này do chưa có thông tin nên chưa tính rõ, nhưng thông qua kết quả kinh doanh hiện nay thì cũng phần nào dự đoán được Nhân hòa hiện ở trong đại vận kém.
Một số nhận xét theo thiên văn địa lý sơ bộ ở trên tạm để tham khảo và giải đáp, cũng là để trao đổi kiến thức về Địa lý với mọi người.
Mong sao sự thay đổi tới đây của UBND Thừa Thiên Huế về cải tạo dự án sẽ mang lại sắc màu xanh và trong trở lại cho khung cảnh tuyệt đẹp của hồ Thuỷ Tiên.

Thứ Hai, 12 tháng 2, 2024

THỎ NGỘ THANH LONG 2024




“Như thị ngã văn 

Chúng sinh đa nạn

Nhị thập nhật minh

Thỏ ngộ Thanh long

Kê khuyển ngộ xà

Địa tạng bồ tát

Tróc nã chư ma

Mười phương tôn phục

Tứ phương quy gia. “

     Đầu năm luận giải bài kệ sấm ký của Ngài Tuệ Trung Thượng sỹ, là thầy của Ngài sơ tổ Trúc Lâm (vua Trần Nhân Tông). 

     Năm 2024 có can chi Giáp Thìn là năm thanh long, ngày đầu năm mùng 1 cũng là ngày Giáp thìn, sự trùng lặp này theo lịch can chi 700 năm mới có một lần. Hiếm nên là quý, quý thì tốt. 

Nội dung dự đoán về vận hạn liên quan đến nước ta. 

Bài kệ nói đến “ thỏ ngộ thanh long” là ý nói đến từ năm Canh Tý (xưa gọi là Thỏ, sau này theo lịch can chi Tàu đổi thành Tý ) đến năm Giáp Thìn (2020-2023) chúng sinh đa nạn, ứng với khó khăn chung của thế giới về dịch bệnh, khó khăn kinh tế và bất ổn về chính trị. “ Địa tạng bồ tát tróc nã yêu ma” có nghĩa là có nhiều kẻ xấu phạm luật pháp bị bắt xử. Câu “ tứ phương quy gia” là nói đến từ năm 2024 sẽ có nhiều người nhiều tổ chức kinh tế xã hội ở khắp trên thế giới đặc biệt là những người gốc Việt sẽ quay về đầu tư phát triển tại nước Việt Nam. 

    P/s: bài thơ chúc tết mình sáng tác trong hình, cuối năm thường viết dạng liễn thư pháp để treo trong nhà bên nội ngoại và tặng người hữu duyên.

Chủ Nhật, 28 tháng 4, 2019

TRạch Phong Đại Quá

Thiền luận quẻ Trạch Phong Đại Quá



Thượng Đoài - Hạ Tốn

Âm: Đại Quá: Đống nạo; lợi hữu du vãng, hanh.
Nghĩa: Quẻ Đại Quá - tượng trưng cho khí dương quá mức khiến cho rường nhà oắn xuống như muôna gãy; tiến tới sẽ có lợi, mọi việc sẽ hanh thông.
Luận: Lược dùng pháp thế gian mà nói thì người lãnh đạo quốc gia hay doanh nghiệp, nếu dùng văn hoá hợp với đạo lý để phát triển thì sự thịnh vượng sẽ được lâu dài. Lược dùng Phật pháp mà nói thì các bậc long tượng dùng giáo lý để giáo hoá quần sinh, khiến Phật pháp được thấm nhuần và lưu hành rộng khắp. Lược dùng phép tự lợi là quán tâm mà nói thì công phu tăng tiến sẽ phá tan được vô minh. Lược dùng phép lợi tha mà nói thì đó là hạnh bố thí làm cho tâm người được an ổn. Được như vậy mọi sự sẽ tiến lên, trở nên lớn mạnh là ứng với chữ ĐẠI. 
Phàm chu kỳ phát triển của vật chất hay dòng sản phẩm nào cũng tuân theo quy luật thành trụ hoại không ( sinh - diệt ). Từ như xưa đến nay, phàm thái bình lâu đều nảy sinh mầm loạn. Cũng như tu hành mà chỉ lo tự lợi thì được an lạc tầm thường mà không thể nhập được với pháp giới tính. Việc mãi lo bố thí người mà quên tự sủa mình thì cái Ngã ngày thêm lớn. Trong tiến trình tu chứng của Thái tử Tất Đạt Đa, việc khổ hạnh quá làm cho thân thể mòn yếu, kéo theo tinh thần khí lực mờ mịt. Đó đều là hiện tượng của QUÁ.  Cho nên, như việc kinh doanh thì phải tính đến sự phát triển cân bằng bốn nguồn lực chính ( xu thế phát triển sản phẩm - Chăm sóc khách hàng - Công nghệ sản xuất - Phát triển nhân sự nội bộ ) nếu thiên lệch quá về một trong bốn nguồn lực thì thiếu sự cân dẫn đến cái quả bất ổn là cái nguyên nhân mới của suy thoái. Cũng như trong tu hành chỉ lo Định thân để có sự an ổn thì Tuệ giải khó phát sinh. Hành đạo mà nặng về quy mô hình tướng trong thời gian dài thì pháp hữu lậu dễ phát sinh ( tâm hưởng lạc, vì để có lợi dưỡng nên hù doạ, mê mờ người khác để trục lợi ). Vì vậy trong mọi sự mọi việc từ thế gian đến xuất thế gian cần phải có sự cân bằng, trên nền tảng quy củ, như khi công phu đã tiến thì vô minh sẽ bị phá, đó là cái khéo của dụng tâm, cũng là ý quẻ Đại Tráng muốn nhắc nhở ở câu “ lợi hữu du vãng, hanh” nghĩa là tiến lên thì có lợi, mọi việc sẽ được hanh thông. 

LUẬN HÀO THEO HẬU THIÊN BÁT QUÁI
1.  初六: 藉用白茅, 无咎.
Sơ lục: Tạ dụng bạch mao, vô cữu.
Dịch: Hào 1, âm: Lót (vật gì) bằng cây cỏ mao trắng, không có lỗi.
Âm: Tạ dụng bạch mao, vô cửu
Nghĩa: Dùng cỏ mao trắng để lót thì không lỗi
Giải luận: Hào sơ cửu ứng với gian đoạn đầu của sự việc, ứng với tuổi nhi đồng. Hào sơ cửu của quẻ Đại Tráng có can chi Quý Hợi, ngũ hành thuộc Thuỷ nên được Miếu-địa. Miếu là đạt là có các yếu tốt ở giai đoạn đầu tiên làm nền tảng cho các bước tiếp theo được thuận lợi. Ở giai đoạn này cần phải giữ Lễ đức để cho sự linh hoạt được phát huy tối đa, nếu lại phạm sai lầm thì sự việc sẽ trở nên trì trệ, đó là cách thật đức và hư đức của hào sơ cửu. 
Giải thích theo Phật pháp, trước do đã có nhân duyên với Phật học, nay lại khởi tâm tu hành, phát Bồ đề tâm nguyện gọi là có cơ duyên đầy đủ vững mạnh. Nếu dựa vào cái sơ tâm ban đầu đầy đủ đó mà thinh tiến thì kết quả sẽ được tự tại trong đời sống này và thành tựu trong thời tương lai.
2.  九二: 枯楊生稊, 老夫得其女妻, 无不利.
Cửu nhị: Khô dương sinh đề, lão phu đắc kì nữ thê, vô bất lợi.
Dịch: Hào 2, dương : cây dương khô đâm rễ mới, đàn ông già cưới được vợ trẻ, không gì là không lợi.
3.  九三: 棟橈, 凶.
Cửu tam: Đống nạo, hung.
Dịch: Hào ba, dương: cái cột cong xuống, xấu.
4.  九四: 棟隆, 吉.有它, 吝.
Cửu tứ: Đống long, cát. Hữu tha, lận.
Dịch: Hào 4, dương : như cây cột lớn, vững , tốt. Nếu có ý nghĩa gì khác thì hối tiếc.
5.  九五: 枯楊生華, 老婦得其士夫, 无咎, 无譽.
Cửu ngũ: Khô dương sinh hoa, lão phụ đắc kì sĩ phu, vô cữu, vô dự.
Dịch: Hào 5, dương : Cây dương khô ra hoa, bà già có chồng trai tráng, không chê cũng không khen.
6.  上六: 過涉, 滅頂, 凶, 无咎.
Thượng lục: quá thiệp, diệt đính, hung, vô cữu.
Dịch: Hào trên cùng, âm. Lội qua chỗ nước sâu, nước ngập đầu, xấu: nhưng không có lỗi.

LUẬN HÀO THEO TIÊN THIÊN BÁT QUÁI
1.  Hào sơ cửu có ngũ hành thuộc Thuỷ nên được Miếu địa ( tốt đệ nhất). Có nghĩa công việc khởi động ban đầu đều được thuận lợi đầy đủ, đó là đức của chữ Tụ. Sự tích tụ nguồn lực, cơ sở vật chất cũng như tinh thần. Cho nên để khai thác cơ hội ban đầu cần có tâm như “Thuỷ” có nghĩa là linh động trong các hoàn cảnh, luôn hướng đến mục tiêu để tiến tới, tránh lan man ( sẽ bị bốc hơi ). Về đối ngoại cần phải giữ chữ Tín, bởi nếu mất sự tin tưởng thì hoá ra cách hãm hiểm là bị mất nguồn lực và gặp tai hoạ. Để bồi cho Thuỷ khí được vượng cần sống có Lễ đức và Nghĩa đức.
Luận theo Phật pháp, mọi tuệ phát sinh đều bắt nguồn từ An -  Tĩnh, gọi là Thiền Định. Tĩnh có nghĩa là tụ là tập trung. Tụ là thiền Chỉ, tập trung là việc Quán chiếu về pháp giới. Đó là việc bắt đầu từ quán Tứ Niệm Xứ đến Chân Không Quán. Thuỷ khí mà vượng tiến thì xuất thế gian ứng với trí tuệ Thành Sở Tác Trí, đại diện cho trí tuệ phương Bắc của Phật Bất Không Thành Tựu.
2.  Hào Cửu nhị:
Hào có can chi Quý Dậu thuộc Kim, tương khắc với khí quẻ nên rơi vào cách Hãm-địa. Vì là đại quá nên dễ đổ vỡ, đó là phạm vào khí hãm, hãm có nghĩa là bị kìm hãm, công việc thiếu nguồn lực, thiếu khách hàng, sản phẩm bị lỗi... Vì là Kim khắc Mộc nên cần sự hoá giải bằng Thuỷ khí. Đó là tăng cường và duy trì cái tốt ở giai đoạn đầu, tránh sự mất uy tín, các sự việc xấu nếu cảy ra cần có sự dàn xếp thoả đáng đó là cần đủ cả Lễ và Nghĩa vậy.
Luận theo Phật pháp, việc tu sửa thân tâm, trước cần phải học hỏi để thông tỏ các khái niệm các phương pháp hoá giải, sau đó mới đến tu Thiền Định, nếu không trong lúc tâm nhu nhuyến và các vọng tưởng giao xen hoá hiện ra các cảnh hư huyễn ( ấm ma ) sẽ làm cho tâm thêm loạn. Thấy cảnh xấu thì rối, thấy cảnh tốt thì kiêu mạn khởi. Cho nên, con đường tu chứng đúng là sau khi phát Bồ đề tâm, tiến tới tu Bồ tát hạnh, để hoàn thiện mình, giúp người nhằm tích trữ phúc đức và trí tuệ thế gian, làm tư lương cho con đường Bồ tát đạo.   
3.  Hào Cửu Tam:
Giai đoạn cuộc đời đến 30 tuổi, giai đoạn thứ ba của sự việc, vận ứng với 3 tháng, 3 năm. Hào tam có ngũ hành thuộc Mộc nên vào cách Đắc địa. Đắc địa là mọi việc đều chắc chắn. Thuận duyên ở giai đoạn này có được là do trước sống luôn giữ lễ với người nên công việc được sự linh động.
Giải thích theo Phật pháp, người tu có được tín tâm sâu sắc vào chư Phật, vào con đường giải thoát, nghĩa là nhận thức được bản tâm vốn thanh thịnh, để từ đó tuỳ duyên mà tu hành để tự lợi và lợi tha gọi là nhập-địa ứng với hào cửu tam là cách đắc địa vậy.
4.  Hào Cửu tứ:
Can chi hào cửu tứ thuộc hành Thổ, xung khắc với hành của quẻ Đại Quá nên bị hãm-địa. Nghĩa là giai đoạn gặp phải khó khăn do một số nghịch duyên. Chủ yếu bị người phản nghịch, có nhiều chuyện phải lo lắng mà hoá hiện thành bệnh liên quan đến dạ giày. Để hoá giải cần phải năng quán sát sự việc cẩn trọng, làm việc phải trên nền tảng cân nhắc kỹ các rủi ro, trong các mối quan hệ phải thận trọng, không tin người khi chưa hiểu biết được dụng ý của họ, tránh khởi lòng tham bởi “ham dễ gặp hố”.
Luận theo Phật pháp, phàm đã phát tâm tu hành thì chính là con đường đi ngược dòng thế gian, vì là ngược nên tất yếu có nhiều chướng ngại. Để hoá giải chướng duyên cần năng hành hạnh bố thí tài vật, phóng sinh, làm việc Phật sự để cho cái khí hư Thổ của hào cửu tứ này từ nghịch chuyển hoá thành thuận. Cũng là việc đối trị phiền não thành Bồ đề.
5.  Hào cửu ngũ:
Canh Thân thuộc hành Mộc ứng với hành quẻ Đại Quá nên là cách Đắc địa, ứng với giai đoạn từ 50 đến 60 tuổi của đời người. Theo tượng quẻ lục ngũ dương cương trung chính, nhưng ở vào thời Đại Quá chớ nên ỷ vào sự thông minh tài trí để tìm sự vui thú cho riêng mình. Nói chung giai đoạn sự việc ứng với hào cửu ngũ khá thuận lợi, nhất là việc tu đạo để chuẩn bị cho một bước nhảy lớn “ qua bờ bên kia”.
Giải thích theo Phật pháp, nếu tri kiến quá nhiều mà không quán chiếu thiền định để giữ gìn và chuyển hoá, thì làm sao có thể phát sinh thắng quả. 
 6.  Hào Thượng lục:
 Can chi Canh Tuất âm thổ thuộc Khôn khí bình địa là chữ Thuận có nghĩa là hanh thông. Các hướng Tây Nam và Đông Bắc, hướng Bắc và Nam thì được hướng và toạ. Người sinh năm 1990 nên chọn bốn hướng đó để thiết lập phương vị của mọi việc thì sẽ có thuận duyên về mặt thế gian thế sự. 
Trong kinh văn của các sách Dịch bàn về Thượng lục có âm: Quá thiệp diệt đỉnh, vô cửu. Nghĩa là: Lội qua sông để nước ngập đầu, tuy hung hiểm nhưng không mắc lỗi. Việc gán ghép âm nghĩa hào này có ý nói về phàm việc gì ở vào thế cùng cực của Đại-quá, tuy có đức nhu chính, nhưng không có tài cứu nạn cho đời, nên sớm muộn cũng gặp chuyện hung hiểm. Đó chính là cái hoạ của công nghiệp chứ phông phải là lỗi.
Lược dùng Phật pháp mà nói thì định mà không có Tuệ thì khi xả định lại bị đoạ xuống cảnh giới thấp. Cho nên tự lợi phải đi với lợi tha, thiền chỉ và thiền quán phải cân bằng để định tuệ duyên khởi phát triển. Đó mới thuận với khí Bình-địa của hào thượng cửu.

•  Luận biến của quẻ Trạch phong Đại Quá
1.  Quẻ Đại Quá nếu gặp thuận duyên thì biến thành quẻ Sơn Lôi Di, Di tượng trưng cho sự nuôi dưỡng; nghãi là hễ giữ gìn sự ngay chính thi tốt đẹp. Nói theo phép thế gian thì dùng đức để sửa mình và giúp người. Lược dùng Phật pháp mà nói thì tự lợi lợi tha, hành thiện pháp, tu thiện hạnh chính là tư lương Bồ đề để nuôi dưỡng Đạo quả. Cái dở của quẻ Di là khí Lục - Sát. Có nghĩa là tốt sẽ bị nghịch cảnh làm cho xấu, để hoá giải cái sát thì thường nên hành hạnh phóng sinh cứu mạng các loài để lấy cách “ tham sinh quên khắc” là phép đối trị lấy phúc bù hoạ, lấy sinh diệt sát. Như người tu hành thường quán niệm thì vọng tưởng không khởi lên, không khởi thì không còn phải điều phục. Người như vậy gọi là Vô-sự chân nhân. Nhu trong cuốn sách của Thầy Nhất Hạnh có trích câu của Tổ sư Lâm Tế : “ kẻ thần thông không bằng người tầm thường mà vô sự “
2.  Mệnh người hay sự việc được quẻ Đại quá mà gặp nghịch duyên thì khí quẻ sẽ biến đổi như sau: 
DI —> BÁC —> MÔNG—> CỔ—> ĐỈNH—>CẤU—>TỐN.
Thuận thì trước sau như một, biến thì khó lường. Quẻ Di hành Mộc ( theo tiên thiên bát quái ), vì là khí lục sát nên Mộc khí hoá thành cảnh trì trệ, cho nên cần phải miên mật giữ ngũ giới đến tu thập thiện thì sẽ hoá cái sát thành cái sinh khí mới là quẻ Sơn Địa Bác, “Bác” là rơi rụng đi các phiền não thế gian, các chướng ngại trong công việc. Nếu nư vậy mà không chịu tinh tiến thì quẻ sẽ biến sang Sơn Hoả Mông là mất phương hướng, mọi việc bị quấy nhiễu, thế gian gọi là Ngũ-quỷ, nhà Phật gọi là Ngũ-Ấm ma. Làm cho tinh thần suy giảm là cách tuyệt chí của quẻ Sơn Phong Cổ. Giai đoạn này cần kết giao với các thiện tri thức để học hỏi, cùng tìm ra các định hướng mới để hoá giải cái cái tuyệt-chí mà có được sự ổn định về mặt tinh thần. Nếu được như vậy thì khí quẻ sẽ biến sang Hoả Phong Đỉnh có hành thuộc âm Mộc, ứng với mọi việc được hoà nhập. Nếu không hành hạnh An-nhẫn thì sẽ biến thành khí quẻ Thiên Phong Cấu là khí hoạ hại, đó là cái hoạ bị kẻ xấu lợi dụng hại mình vậy. Để hoá giải cái hoạ phải dùng Phúc, là việc hành hạnh bố thí cúng dường. Để hoá giải cái Hại phải dùng Đức, là việc sống có trước có sau. Đối với bạn, với khách hàng thì phải giữ chữ tín, đối với tình cảm thì phải chung thuỷ, đối với người dưới thì phải chăm lo, với người trên thì phải kính trọng... Nếu được như vậy thì mọi việc sẽ được hài hoà, hoà nhập để có hướng tiến lên vũng chắc đó cũng là tượng của quẻ Thuần Tốn ( Tốn vi Phong) vậy.   
•  Tổng luận
Trạch Phong Đại Quá:
“Lý + Mộc. Hư Đức: Ai, Bất hòa. Khí: Lục Sát
Tượng: Làm việc báo thù phải biết kiềm chế thì tốt. Nếu làm quá mức thì sẽ hóa thành làm ác. Ví như người bị nợ ít nhưng đòi nợ nhiều hơn hóa ra thành kẻ cướp tiền quá mức với con nợ. Biết tự kiềm chế thì hậu vận sẽ tốt”
. Đó là lời khuyên của cao nhân đối với quẻ Quá, có nghĩa bốc ra quẻ Quá thì phải thận trọng dễ gặp phải kẻ bất Lễ, tìm cách lợi dụng, làm thiệt hại về thời gian, tiền bạc và uy tín của mình. Chữ QUÁ là đừng để cho sự sân hận lên tới đỉnh điểm mà thành ra bất hoà đổ vỡ mọi chuyện tốt của chính mình. 
Lược dùng pháp thế gian và Phật pháp mà nói thì đang thời kỳ Đại quá đều nên dùng cương nhu để cứu lẫn nhau mới được. Cương quá hay nhu quá đều sai. Như hào sơ lục dùng âm nhu để ở dưới cùng của quẻ Tốn, mà ở tại ngôi vị dương, không để công danh phú quý làm luỵ cái tâm. Duy lấy sự chính đáng và sở học của mình để hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Lược dùng Phật pháp mà nói, trong có Định sẽ có Tuệ, ngoài dùng giới hạnh tinh nghiêm để giữ gìn thì mọi cái hoạ đều chuyển được thành cái phúc lành ở thế gian và cái thắng duyên xuất thế gian.
————————
Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng
————————

Apr 28, 2019 at 1:10 AM