Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Quy Y Tam Bảo

 
 
Mưỡu:
Đời người một thoáng chiêm bao
Sống không tu chỉnh khác nào sống mê.
Hát nói:
Quy y Tam Bảo,
Quay về bản tâm thanh tịnh xưa nay.
Kìa Bát-phong gió thổi mây bay,
Nhà Vô-Sự hỏi là đây có phải?
Sáng rung chuông nhất tâm hối cải,
Chiều gõ mõ niệm Phật tụng kinh.
Thi thoảng trong tâm có hiện vọng tình,
Kẻ mới tu giật mình giấc mộng huyễn.
Này tứ cú kệ, này Kinh vạn quyển,
Này lý thời không, này trí Bát Nhã.
Thoáng suy sao tỏ Phật - Ma,
Bởi Lý Sự nó trùng trùng duyên khởi.
Vạn pháp duy tâm lý đó mà tới,
Vạn hạnh thật tính sự đó mà đi.
Tâm phân biệt ấy có Vô-Vi,
Hay để cảnh hiện tiền đưa xa mãi?
Tỉnh thức từ đây không sợ hãi,
Tu pháp chư Phật chẳng có sai.
Càng tinh tiến Đạo-Vị càng cao!
-------------------------------------------------
Chú giải:
"t thoáng chiêm bao
ng mê."
    Đời sống loài người trên dưới một trăm năm, từ khi sinh đến khi chết đi, nhìn lại như một giấc mơ, những cái của mình trước thì nay không còn, những cái tưởng của mình thì bây giờ là của người khác. Cuộc sống thì vui ít khổ đau phiền não thì nhiều. Tâm mải đuổi theo các mong cầu, thân chịu cái đau của bệnh tật...không chịu tỉnh ngộ để thấy vạn vật vô thường, khi có khi không; để đến như cái thân đây coi là của mình nhưng nào phải mình muốn gì nó cũng nghe theo, huống là những vật khác, thân ta muốn nó lành thì nó cứ đau, muốn nó trẻ thì nó cứ già, muốn nó sống thì nó cứ chết. Ôi!, mải mê theo đuổi những vật dục huyễn hư mà không chịu tu chỉnh cái thấy, cái nhìn để cho thân tâm cứ mãi lăn trôi trong sáu nẻo luân hồi chịu biết bao khổ sở, làm cho sống chết lặp đi lặp lại, như vậy chẳng phải mê là gì!?
"o,
a nay."
Chúng sinh vì nhiều đời lăn trôi trong lục đạo từ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, atula, người đến cõi thiên ( 33 tầng trời). Về đời lâu xa về trước có người thấy chán cảnh sống chết đó mà tự soi xét tự tâm với cảnh hiện tiền mà phát hiện ra lý nhân duyên, thành các vị Độc Giác Phật. Cũng thời đó tà ma ngoại đạo xuất hiện nhiều, chúng cho chúng sinh ăn bánh vẽ, mê hoặc làm cho chúng sinh lại thêm chìm đắm. Trong số các vị Độc Giác có một vị phát lòng thương cảm chúng sinh mà chịu khó lăn trôi vào các cõi luân hồi để cứu vớt, chỉ bày cách sống cho chúng sinh thoát khỏi khổ não, lâu đời nhiều kiếp vì hành hạnh từ bi đó mà công đức được viên mãn, vị Độc Giác đó đã thấy rõ được thật tính thật tướng của các pháp và đắc toàn thể toàn dụng của pháp giới tính thị hiện thành Đức Phật Uy Âm Vương. Nhờ công đức đó mà tới nay có vô lượng vô biên chư Phật. Chúng ta nhờ ơn đức dạy bảo của chư Phật mà thấy rõ được cái khổ luân hồi, nhận rõ được nguyên nhân của khổ đau, rồi tu chỉnh theo các pháp môn của chư Phật chỉ bày để dần chứng quả là diệt được cái chấp Ngã tướng và chấp Pháp tướng, từng bước thể nhập với pháp giới tính của vạn pháp như Phật. Trong quá trình tu chứng ở các đời vì tập nhân phiền não còn nhiều, để không phải lầm lạc chúng ta phải nương dựa vào các Thầy là các vị đã tu hành trước, những người đã thông suốt ý chỉ của Phật một lòng tinh tiến tu hành để vừa độ mình lại không quản ngại độ người.
    Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Quy Y Tam Bảo chính là chúng ta quay về nương dựa Phật, học hỏi giáo pháp của chư Phật, nhờ sự dìu dắt của chư Tăng, Phật, Pháp, Tăng là thể tính thanh tịnh của pháp giới không có nhiễm ô, chúng ta cũng chính là một pháp trong pháp giới cho nên Quy Y Tam Bảo cũng chính là quay về với bản tâm vốn thanh tịnh của chính chúng ta.
"i mây bay,
i?"
    Nói về Bát phong là nói đến tám "ngọn gió" làm cho đời sống của chúng ta thăng trầm, bao gồm bốn điều phúc và bốn điều suy: Thịnh và Suy, Hủy và dự, Xung và Cơ, Khổ và Lạc. Hay là: lợi suy, vui khổ, vinh nhục, khen chê.
1. i:y...
2. Suy:u bi, chán nãn.
3. Vui:gian.
4. :thù.
5. Vinh:cao
6. c:c, uy tín.
7. Khen:i khác
8. Chê:i khác.
    Tám ngọn gió của thế gian nếu tâm chúng ta chấp trước cái ngã tướng ( chấp thân của ta) và cái pháp tướng ( chấp cảnh giới ta sống là có thật) nó sẽ thổi hết công đức tích tụ được bấy lâu nay. Lấy một ví dụ: Thời xưa, bên Trung Quốc có vị thiền sư Phật Ấn và Ngài văn hào Tô Đông Pha là đôi bạn thân. Một lần đi qua nhà bạn, thiền sư Phật Ấn thấy dán trước nhà dòng chữ " Bát phong suy bất động". Vì biết người bạn mình chưa thực chứng nên Thiền Sư bèn chổng mông đánh rắm vào tờ giấy treo đó. Gia nhân ngài Tô Đông Pha hôm sau về mách lại sự việc với chủ nhân, quá tức giận vì bị sỉ nhục ngài Tô Đông Pha bèn chèo thuyền qua bên kia sông đến ngôi chùa của ngài Phật Ấn lên tiếng trách cứ rất nặng. Thiền Sư bèn mở cửa ra mỉm cười và nói: Tôi tưởng ngài đã không còn bị tám ngọn gió lớn lay động, sao bây giờ mới có một ngọn gió nhỏ mà đã thổi ngài bay từ bên kia sông sang tới bên này là thế nào". Ngài Tô Đông Pha thẹn quá mà tiu nghỉu rút lui. Như vậy khi Tâm chúng ta thường chính niệm sẽ không bị tám ngọn gió lay động, mọi sự dù đến dù đi cũng không mảy may, sống như vậy thì chẳng có điều gì làm khó được, chẳng có gì làm hại được. Đời sống ung dung tự tại như thế gọi là người vô sự và ở đâu làm gì cũng là nhà Vô sự.
    Cốt lõi của việc tu hành ở chỗ luôn Chính Niệm, vậy thế nào mới là chính niệm?; Chính niệm có hai nghĩa:
- Ức niệm và quán niệm. Ức niệm là ở chỗ nhớ nghĩ công ơn của cha mẹ, thầy cô, bạn hữu mà mong trả, nhớ nghĩa lý trong kinh, nhớ đức hạnh của Phật, thì gọi là chính. Trong kinh có câu: " Nhớ Phật, Niệm Phật, đời này hoặc đời sau, quyết chắc đặng thấy Phật". Người tu theo đọa Phật phải giữ lòng nhớ cho chân chính, nhất là phải nhớ Phật, niệm Phật thì mới khỏi sai đường lạc nẻo.
- Quán niệm, nghĩa là tưởng tượng chúng sinh nghèo hèn đói khó, nguy hiểm tai ương, mà sinh lòng thương xót cứu giúp; lại tưởng tượng vạn vật thế gian tán tụ vô thường, vì nhân duyên mà sinh mà diệt, không có tính chất nhất định mà vứt bỏ những sự mê lầm, thì đều gọi là chính quán niệm.
"i,ng kinh.
Thi thoảng trong tâm có hiện vọng tình,
Kẻ mới tu giật mình giấc mộng huyễn."
Chúng ta sau khi đã Quy Y Phật pháp, đã nhận thấy chân tính của sự vật hiện tượng là " vô thường, khổ, không, vô ngã" thì thuận theo sự lý mà trong gia đình thị hiện làm người con thảo, ngoài xã hội thị hiện làm người lương thiện, tâm không còn bị cảnh vật dục lôi kéo. để được như vậy chúng ta cần phải nhận thức rõ về "tứ pháp ấn":
1- Vô thường: vạn vật trong vũ trụ đều được cấu tạo từ thất đại gồm địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức. Trong đó, năm đại đầu là phần thân, hai đại kiến và thức thuộc về phần tâm.

Thứ Sáu, 21 tháng 2, 2014

Mạn đàm về " Tùng tướng nhập tính "

Tất cả các pháp theo tâm phân biệt thì có hình tướng của sự vật. Khi tâm phân biệt thay đổi thì hình tướng của sự vật cũng thay đổi. Như vậy thực tế sẽ là bất khả tư nghì ra ngoài đối đãi như sinh diệt, có không, đồng dị, khứ lai. Đức Thế Tôn Thích Ca Mâu Ni Phật Đại Từ Đại Bi thị hiện trên cõi Ta Bà dùng đủ cả phương tiện Khai Thị Ngộ Nhập chỉ đường cho chúng sinh thấy được Phật tính của chính mình để thành Phật như Ngài, cho đến nay trải hàng ngàn năm lịch sử giáo lý của Ngài vẫn ngự khắp cả mười phương, cứu khắp muôn loài. 

Bàn về khái niệm " Tùng tướng nhập tính", chính là nói về các pháp môn tu hành của chư Phật Tổ chỉ bày. Pháp môn của Phật thì khi quyền khi thật, tuỳ thuận theo căn cơ của từng chúng sinh. Có lúc Ngài dùng Tướng để dẫn cho chúng sinh rõ được cái Tính bất sinh bất diệt. Có khi ngài dùng Tính để chỉ cho chúng sinh thấy tướng Tâm là huyễn hoá. Phương tiện thì nhiều nhưng gom lại chủ yếu là các môn về Pháp Tính và Pháp Tướng. Phương tiện chư Tổ gọi là ngón tay chỉ Trăng, nhiều người tu chấp vào ngón tay mà để cho trăng cũng không thấy mà ngón tay cũng chẳng còn. Để hiểu thấu về điều này nay bàn về hai chữ Phương Tiện: Chữ Tiện nghĩa gốc là thủ đoạn, các từ ghép như bần tiện, đê tiện... Chữ Phương nghĩa là Chính. Như vậy các pháp môn tu hành là nơi chư Phật Tổ dùng thủ-đoạn-chân-chính để dẫn dụ những đứa con ham chơi trong "nhà lửa" không biết là sắp chết cháy của mình thấy hoạ, biết mà ra ngoài để thoát cái khổ não. Sau khi ra ngoài thì Phật lại dùng phương tiện khác để giúp cho chúng sinh nhận rõ được thật tính của pháp giới. Các pháp môn phương tiện như vậy tuỳ theo tiến trình giác ngộ của chúng sinh mà có pháp tiểu trung đại thừa. Cụ thể như nhân tu theo Tứ diệu đế thì đắc quả tiểu thừa A la hán. Nhân tu thập nhị nhân duyên đắc quả trung thừa Bích Chi.  Nhân tu Lục độ ba la mật thì quả là Bồ Tát đại thừa. Tiến lên tu hành để diệt hết vi tế vô minh là câu-không thì đắc quả Phật tối thượng thừa. 

Trong pháp môn Phật Tướng tông là Duy thức học có nói đến khái niệm " TÒNG TƯỚNG NHẬP TÍNH", đây là phép tu thuộc về Pháp Tướng. Phật từ bi nói rõ cho chúng ta cái hành biến của Tâm. Cái tâm lâu nay chúng ta tưởng là tâm mình chẳng qua đã bị nhầm bởi cái tâm phân biệt. Tâm trong Duy Thức nói có 100 tâm pháp, lại biến hiện như huyễn như hoá với pháp giới (đới chất cảnh). Việc chỉ ra hành biến của Tâm thức giúp ta nhận rõ cái tướng của tâm là huyễn ảo, cỗi gốc của sự huyễn hoá này là vọng niệm chấp ngã và chấp pháp, xa rời được nó là quy về với bản tính vô phân biệt ( tính cảnh ) của Đại thừa Bồ Tát ( Sa ma tha ). 

Thực tại thông qua cái tâm mong cầu, cái cảnh hiện tiền trong cuộc sống mà quán chiếu để nhận diện được tính vô ngã vô thường khổ không của sự vật hiện tượng. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, công việc nào, suy tính nào đều quán sát kỹ càng ( gọi là tỉnh thức với hiện tại ) cho đến khi thuần thục. Pháp quán chiếu này kinh sách gọi là Quán Chiếu Bát Nhã. Trở về với tính bình đẳng hay là đình chỉ vọng niệm, theo kinh Viên Giác gọi là Không-Quán. Đối với QK thông thường nhìn vào hình vào cảnh vào sự mà quán sát rồi rãnh rang dùng văn từ viết theo thể thơ để kết luận vấn đề. Dụ như thấy bông sen nở thì quán các đặc tính xuất thế gian của sen, quán cái tính nhân quả đồng thời của sen rồi viết thành câu thơ ngắn để tặng người cùng ngắm: 

"Trắng vàng tướng tính Thể bông hoa

Diệu dụng sum la cũng thế mà 

Cành lá nhân duyên sinh ra quả

Pháp giới trùng trùng: bất-giác ra. "

Hoặc có khi nhàn nhã quán cái tính nhất như của pháp giới từ bông sen mà viết:

"Thanh tịnh nhưng sắc chẳng nhạt nhoà

Liên Hoa diệu pháp diệt tà ma

Chúng sinh Lục đạo nhờ ơn Phật

Thấy pháp giới là một đoá hoa. "

Xưa nay chư Thầy Tổ giáo huấn chúng ta thường phải tỉnh thức trong từng phút giây của cuộc sống. Tuỳ thuận theo duyên mà chính niệm không để mất. Được như vậy là luôn sống trong Định.  Gọi là " Tự tịnh kỳ ý ". Cuộc sống từ thân tâm sẽ có Hỷ, Lạc, An, Tĩnh. 


Phần trên là QK nói về việc dụng Tính để nhận rõ và dẹp bỏ cái vọng niệm là tướng của Tâm. Trong thực tế của chúng ta hiện nay chusng ta bi sự vật hiện tượng chi phối nhiều. Việc lựa phải làm cái gì, phải như thế nào là điều vô cùng khó khăn. Có khi quán thấy mọi sự tướng đều huyễn hoá, vậy câu hỏi chúng ta đặt ra: vậy còn Tác sự làm gì?...Đây là vấn đề lớn, Nhiều khi mới tu dễ bị cái phần Lý này làm cho thành ra bệnh chấp Lý bỏ Sự. Phải hiểu là cái tâm thức chúng ta huân tập ô nhiễm từ nhiều đời nhiều kiếp. Đức Phật dạy trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm về việc cởi nút khăn, theo lý thì cần mở từ trung tâm nhưng vì cột làm sáu nút thì nay cởi ra cũng phải tuần tự từng nút mà cởi hết sáu nút đã thắt. Ý nói về Lý thì có thể giác ngộ nhanh nhưng về Sự thì phải thứ lớp mà trừ. Như vậy biết cái tướng là giả dối không thật nhưng nếu chấp vào thì lại ra mê muội mà đối đãi thành cảnh giới khổ não. Bồ tát phải làm các việc công đức để khuyên chúng sinh bỏ vọng niệm mà trở về với tính vô phân biệt. Việc làm công đức để mục đích tạo thành Chính niệm mà trừ đi vọng niệm. Làm như vậy, quán như vậy gọi là Huyễn Quán hay Giả Quán ( Vi pat xa na ). 

Việc thấy rõ được bản tính Chân Như của pháp giới trong đó Chân là chân thật, Như là không khác. Tính Chân thật này là tính bất sinh bất diệt ra ngoài đối đãi. Nhận rõ bản tính của pháp giới là trùng trùng duyên khởi mà tuỳ duyên bất biến, bất biến mà tuỳ duyên. Sống như thế quán như vậy gọi là Trung Quán.  Từ đó thấy pháp giới là bình đẳng. Trên đồng với chư Phật đồng một Từ lực, dưới đồng với chúng sinh đồng một Bi ngưỡng. Đây là nhất chân pháp giới của chư Đại Bồ Tát đã viên mãn quả Phật tối thượng thừa tức là thành Phật như chư Phật ở thời Quá Khứ. Các vị Bồ Tát tương lai cũng sẽ thành Phật nếu tu theo ba phép quán nêu trên. Nhất tâm tam quán này là phần chi tiết của Ngũ Ba La Mật trong Thập độ ba la Mật. 

Nhân duyên bàn về khái niệm " Tùng tướng nhập tính" với bạn Đạt Lê mà Quảng Kiến mạo muội dùng cái tri kiến nhỏ nhoi tổng hợp lại ngắn gọn pháp môn hằng ngày tu tập của mình. Hy vọng gặp được các vị Tôn túc, thiện hữu Đại thừa chỉ bảo thêm cho thì quý lắm thay. Việc trao đổi sẽ làm cho quá trình văn tư tu thêm sâu rộng, làm cái chính Duyên để từ thế gian tiến lên Xuất thế gian. 


Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

Từ tướng tới tính, biểu tượng của giác ngộ ( Pháp giới tính trùng trùngduyên khởi )


      Trộm nghe: Trời Đất thường có lý, Đông Hạ, Thu Xuân đều vô tình. Ngắm Trời trông Đất ai ai cũng biết được mọi sự do nhân duyên tập thành. Bậc trí giả xưa nay ngửa mặt xem Trời, vạch lá dò Đất mà biết rõ cơ sự bởi Trời Đất vận hành thời có tượng, nhưng lắm việc không thông cũng bởi Lý nó vô hình. 
Kệ rằng: 
"Hữu tình đến gieo giống,
Nhân đất quả lại sinh,
Vô tình vốn không giống,
Không tính cũng không sinh."
      Thiết nghĩ: Cái nghĩa sâu xa thì vô cùng mà sự hiểu biết khác nhau lại ở cái tâm phân biệt.
Chư Phật ra đời chỉ nhằm mục đích là dạy bảo, chỉ bày cho chúng sinh giác ngộ tỏ rõ được Lý Sự viên dung và thật chứng pháp giới tính như Phật. Các pháp là những sự vật hiện tượng có tên gọi, có thể nghĩ được, có thể nói, mỗi mỗi pháp đều có giới hạn riêng thì gọi là pháp giới. Pháp giới tính là tính bản nhiên của vũ trụ. Tính bản nhiên ấy là tính " trùng trùng duyên khởi", nghĩa là tính ảnh hưởng dây chuyền của một sự vật đối với tất cả sự vật, của tất cả sự vật đối với một sự vật. 
Một công trinh kiến trúc là một pháp trong pháp giới, dù lớn dù bé cũng chiếm hữu một khoảng không gian, tạo ra và tác động qua lại đến cảnh quan xung quanh và con người hoạt động trong đó. Sự ảnh hưởng đó có cái trực tiếp có cái gián tiếp thông qua một hay nhiều lớp hoặc một hay nhiều tầng, do đó tác động cũng không giống nhau. Trong ảnh hưởng phức tạp của tất cả sự vật làm cho một sự vật xuất hiện và chuyển biến, đạo Phật đã rút ra một quy luật bản-nhiên là luật nhân quả.
    Tiếp theo chuỗi bài viết " Từ Tướng tới Tính, biểu tượng của Giác ngộ" chúng tôi xin giới thiệu việc ứng dụng tính bản nhiên của pháp giới vào việc thiết kế các hạng mục kiến trúc tại Chùa Thiên Trù từ Thượng Toạ Thích Minh Hiền và các Kiến trúc sư, Họa sĩ, Nghệ nhân trong đạo Tràng Chân Tịnh Chùa Hương.
Nói về Tính bản nhiên của vũ trụ là nói về pháp giới tính. Tính bản nhiên đó là tính " trùng trùng duyên khởi". Quá trình tu hành là quá trình tham gia vào các Đạo Tràng để học hỏi, học tập, học hành, để viên mãn Tam Vô lậu học. Đạo tràng Tịnh Độ theo Mật Giáo có tên gọi là Mạn Đà La, nơi giáo hoá chúng sinh của Chư Phật. Thế gian pháp về mặt kiến trúc và đồ họa đạo tràng Tịnh độ thường được biểu hiện bởi các đồ hình Mạn Đà La. 
Tại chốn Tổ Chùa Hương, chư Tổ xưa nay đã giác ngộ được giáo lý của chưa Phật, phương tiện xây dựng chùa và thành lập đạo tràng để hoá độ thập phương quần chúng. Đạo tràng Chân Tịnh được xây dựng và phát triển với tâm nguyện tiếp nối ý chư Tổ nhiều đời, truyền trao pháp môn giác ngộ Mật Tông Đại Thừa, là một trong những pháp xuất thế gian tối thượng thừa, giúp chúng đệ tử Phật tu học để thấy rõ được nguồn gốc của pháp giới là Chân, hết đi các vọng niệm là Tịnh. Thế mới biết hạnh nguyện của chư Tổ rộng lớn vô cùng, các Ngài vừa tu hành tự độ mình lại không quản ngại hiện bày phương tiện để độ người.
Quá trình khổ công xây dựng tôn tạo cảnh chùa của chư Thầy, Tổ cũng để tạo ra cái Sở Duyên Duyên là cái duyên môi trường hoá độ chúng sinh. Cấu trúc Chùa Thiên Trù nằm trong tổng thể thánh tích Chùa Hương. Giải pháp tổ chức mặt bằng hình thành bởi trục Chính Đạo, định vị từ hạng mục công trình: Tam Bảo, Nhà Tổ, Gác Chuông, Tam Quan. Bên Tả vu ( trái) là khu vực nội tự, bên Hữu vu (phải) gồm các công trình Tháp Chân Tịnh, nhà Trai đường và Hiển Lâm Các.
Hiển Lâm Các là công trình được xây dựng mới nhất, theo dạng thức Đàn - Thành với cấu trúc đa năng, phục vụ cho việc giảng pháp, hoạt động lễ hội, không gian bảo tàng, triển lãm nghệ thuật nhiếp ảnh và hội họa Phật Giáo.
Giải pháp kiến trúc Hiển Lâm Các về mặt bằng được thiết kế dựa trên đồ hình Mạn Đà La. Mạn Đà La là một " sơ đồ" có tính biểu tượng của vũ trụ và các thành phần của vũ trụ, hoặc chính là bản tâm con người. 
        Cấu trúc không gian Hiển Lâm Các gồm có bốn cửa ra vào được tổ chức thành trục chính hướng về Bảo tháp Chân Tịnh, ý tưởng quy hoạch này như định rõ về ý niệm Phật tính thường trụ bất sinh bất diệt. Bố cục Bốn sảnh ra vào công trình chính là bốn cánh cửa giải thoát, đây cũng là bốn diệu dụng của Chân Tâm, bao gồm: Từ, Bi, Hỷ, Xả. Tứ vô lượng tâm này là pháp môn tu hành để tiến lên thể nhập với pháp giới tính của tự tâm.
     Hình khối công trình là tổ hợp tầng tầng lớp lớp của hệ cấu trúc mái đao truyền thống. Giải pháp thu mái theo các tầng thể hiện ý niệm về việc tịnh hoá của Thân - Khẩu - Ý, Tam mật này theo tiến trình tu chứng sẽ được thanh tịnh, là dần thể nhập vào phần Chân - Không của Thiên tĩnh ( giếng trời- phần không gian xuyên suốt từ tầng một lên lới mái). Quán chiếu kiến trúc các lớp mái Hiển Lâm Các cũng giúp chúng ta phần nào thấy được tính trùng trùng duyên khởi của pháp giới.
     Cấu tạo công trình chủ yếu là gạch nung, đá xanh tự nhiên, gỗ và kim loại... Các vật liệu xây dựng này kết hợp với mảng tường sơn màu sáng tối, được tính toán phù hợp và hài hoà cùng cảnh quan tổng thể khuôn viên chùa Thiên Trù. Thành phần cấu tạo nên công trình cũng chính là các nguyên liệu truyền thống bắt nguồn từ yếu tố tự nhiên. Quán sát và soi chiếu về điều này mới hay pháp giới đều được cấu tạo cùng một chất liệu, như Duy thức học quan niệm vạn pháp Duy Thức. Việc lựa chọn nguyên vật liệu để xây dựng nên công trình bền vững cũng như quá trình huân tập chủng tử thiện lành, loại bỏ đi chủng tử bất thiện của tâm thức, đó chính là sự chuyển hoá và xây dựng Tâm giác ngộ, xây dựng được công trình bền vững trước mưa bão khắc nghiệt, vô thường của thời gian.
Nội thất toà Hiển Lâm Các với không gian trung tâm là Thiên Tĩnh ( giếng trời). Cấu trúc này giúp công trình không bị giới hạn về chiều cao trần nhà, việc bố trí nội thất theo đồ hình Mạn Đà La tạo ra sự tích và tụ không gian rất quyền biến, phù hợp với nhiều công năng sử dụng khác nhau. Điểm đặc biệt trong không gian nội thất Hiển Lâm Các là kết cấu mái được thiết kế theo dạng thức Mạn Đà La Ngũ Trí Như Lai. Quá trình hoạt động trong Hiển Lâm Các làm cho chúng ta có cảm giác như đang hiện hữu trong cõi Tịnh độ của chư Phật. Dõi theo trục chính đạo từ phương và hướng của kết cấu mái là hình tượng mang tính tượng trưng của Chư Phật và các Pháp khí Mật Tông. Việc quán tưởng Mạn Đà La này chính là pháp môn Mật Giáo Đại Thừa giúp cho người thực hành có thể trực nhận được những nguyên lý sâu kín nhất của pháp giới và cũng có nghĩa là những nguyên lý sâu kín nhất trong nội tâm của chính mình.   
Tổng thể công trình Hiển Lâm Các với cấu trúc và hoạ tiết nội, ngoại thất như là thể hiện cho quá trình giác ngộ chính là quá trình chuyển hoá bát thức thành tứ trí: 
- Nhãn nhĩ tỉ thiệt thân thức sau khi giác ngộ sẽ biến thành Thành sở tác trí, được biểu tượng bằng Phật Bất Không Thành Tựu (Amoghasiddhi)
- Ý thức sau khi giác ngộ sẽ biến thành Diệu Quán Sát trí, được biểu tượng bằng Phật Vô Lượng Quang (Amitabha)
- Mạt-na thức khi giác ngộ sẽ biến thành Bình Đẳng Tính trí, được biểu tượng bằng Phật Bảo Sanh (Ratnasambhava)
- Alaya thức khi giác ngộ sẽ biến thành Đại Viên Kính trí, biểu tượng bằng Phật Bất Động (Akshobyha).
- Trí Huệ toàn mãn gọi là Pháp Giới Thể Tính trí, được biểu tượng bằng Phật Đại Nhật (Mahavairocana)
Công trình Hiển Lâm Các cũng như vạn vật trong pháp giới, là lớn hay là nhỏ, là rộng hay là hẹp...đều từ cái tâm phân biệt của chúng ta. Việc thiết kế và xây dựng công trình dựa trên nền tảng triết lý Đạo Phật, cụ thể là việc ứng dụng tính bản nhiên của Pháp giới vào kiến trúc nội ngoại thất đã tạo ra công trình Hiển Lâm Các độc đáo, dung thông được với cảnh quan linh thiêng chốn Tổ Chùa Hương, nơi trác tích tu hành của Bồ Tát Quán Thế Âm. 
Hãy trở về với pháp giới tính của tự tâm để có thể thấy và biết..., thật là:
Ở nơi tâm địa mới chân tu
Vui xuất thế gian lục căn thu
Thi thoảng dạo chơi đầu chóp núi
Cười to một tiếng biến không hư. 
(Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng) 
Date: 15/01/2014
To: Tập san chùa Hương
Từ Tướng tới Tính, biểu tượng của Giác ngộ
 Bút giả :Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng

Chủ Nhật, 2 tháng 2, 2014

Thiên thời Địa lợi Nhân hoà năm 2014

Luận Thiên Địa Nhân năm Giáp Ngọ 2014
-----------------------------------------------
...Sáng ra mở cửa vệt nắng vàng
Nghe Trầm hương thoảng rõ Xuân sang...

        Ngày Xuân thưởng trà làm thơ, rảnh rang mạn đàm về Thiên Địa Nhân. Việc luận bàn về tam tài này chính là nói về sự vận hành tương sinh tương khắc của một sự vật đối với tất cả sự vật, của tất cả sự vật đối với một sự vật trong pháp giới. Pháp giới ở đây là không gian vô tận ( Vũ ) với thời gian vô cùng ( Trụ ). Mọi sự vật hiện tượng trong Vũ trụ đều sinh diệt không gián đoạn, cái thì đang sinh, cái thì đang trụ, cái thì đang hoại. Khoảng thời gian thành trụ hoại không của một thế giới như thế nhà Phật gọi là một Kiếp, vào khoảng thời gian dài hơn 1.300 triệu năm. Như vậy mọi sự vật hiện tượng tồn tại khi sinh khi diệt khi lớn khi bé cho đến hơn thua, được mất... cứ như vậy cái này đối với cái kia gọi là đối đãi tầng tầng lớp lớp, trong cái ảnh hưởng phức tạp của nhiều sự vật làm cho một sự vật mới xuất hiện và chuyển biến đó Đạo Phật đã rút ra quy luật bản nhiên của Vũ trụ là luật NHÂN QUẢ. 
     Nhận diện được về thế nào là nhân thế nào là quả sẽ giúp chúng ta giải mã được tính huyền bí của cái gọi là thời của Thiên, lợi của Địa và hoà của Nhân. 
     Thiên thời, địa lợi, nhân hoà chính là tác động có tính tốt xấu của môi trường xung quanh tới từng cá nhân đến vùng lãnh thổ. Người xưa đã đúc kết ra sự ảnh hưởng của trời đất và con người thông qua luật nhân quả về tính tương sinh tương khắc từ đó đặt ra khái niệm âm dương đến ngũ hành. 
Ngũ hành chính là phần vật chất của pháp giới, đó là : Địa, Thuỷ, Hoả, Phong, Không hoặc là Thổ, Thuỷ, Hoả, Mộc, Kim. Cái tác động làm cho sinh vượng thuận lợi gọi là tương sinh, ngược lại là tương khắc. Luật ngũ hành tương sinh là Kim sinh Thuỷ, Thuỷ sinh Mộc, Mộc sinh Hoả, Hoả sinh Thổ và Thổ lại sinh Kim. Luật tương khắc là Môc khắc Thổ, Thổ khắc Thuỷ, Thuỷ khắc Hoả. Về lý thuyết là như vậy nhưng trên thực tế vì sự tác động trùng trùng lớp lớp nên có khi khắc lại chính là sinh và sinh lại là khắc, cỗi gốc của sự không thuần này là bản chất của vô thường. Vì là mọi vật chuyển biến tác động qua lại liên tục nhiều tầng nhiều lớp nên không có cái gì tự nhiên sinh ra và tự nhiên mất đi. Điều này chứng minh cho không có cái gì là Thường và cái gì là Đoạn. Tức là không có khái niệm Thượng đế sinh ra mọi loài mọi loài mọi vật. 
      Nói thêm về âm dương sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái rồi biến hoá của tám quẻ đơn thành 64 quẻ kép đủ nói lên sự biến hoá tác động qua lại của các sự vật hiện tượng. Trong cái tốt chung của nhiều sự vật lại tồn tại cái xấu của riêng một hai sự vật. Dụ như cũng là năm Giáp Ngọ có tốt cho người này lại xấu cho người kia, thuận cho việc này lại hại cho việc khác... 
     Sáu mươi bốn quẻ kép có ý có tứ riêng, tuỳ theo sự sinh khắc của hai quẻ đơn mà có sự báo hiệu tốt xấu. Dù có báo hiệu xấu nhưng nếu làm việc phúc đức tốt thì cái xấu đó lại theo cách " tham sinh mà quên khắc" sẽ chuyển biến từ xấu thành tốt. Cũng như hạt giống xấu nhưng quá trình phát triển được chăm sóc tốt thì quả và hoa sẽ theo cái duyên tốt đó mà tốt hơn với hạt giống tốt mà không được chăm bón. 
     Ngũ hành can chi của năm Giáp Ngọ 2014. Về THIÊN VĂN ta có quẻ Lôi Hoả Phong. Ý quẻ là "lau lại cái gương cũ" nghĩa là năm có nhiều vận hội nhiều thời cơ phát triển về mọi mặt. Là năm phục hồi những cái cũ, kém của năm 2013. Khí quẻ là khí Sinh Khí họ quẻ có ngũ hành là hành Thuỷ, dự đoán năm nay nắng nóng và mưa nhiều. 
      Về ĐỊA LÝ, địa lợi ta có Quẻ kép Thiên Hoả đồng nhân. Ý quẻ này nói về việc tiên phong mở đường, nghĩa là năm 2014 sẽ có nhiều cơ hội mới về công việc cho từng cá nhân tổ chức và có nhiều vận hội mới cho quốc gia. Vì quẻ đồng nhân là khí Tuyệt Chí nên để công việc tốt đẹp tránh bị cái hoạ là mất niềm tin và ý chí, chúng ta cần theo phép " dùng Sinh để cứu Tuyệt ". Nghĩa là phải dùng khí Sinh khí là làm nhiều việc Bố thí, phóng sinh, giúp người khó khăn, cứu mạng chúng sinh. Những việc làm này là cái Nhân duyên tốt để giảm cái xấu của Khí Tuyệt Chí mà tăng cái tốt cái lợi của công việc. 
Về NHÂN SỰ, nhân hoà ta có quẻ kép Lôi Hoả Phong nghĩa là năm nay dễ lấy lại được uy tín nếu chúng ta làm việc một cách cẩn thận và kín đáo ( cách của chữ Phong: tàng). Về mặt nhân hoà nhân sự là năm có nhiều cơ hội gặp người tốt, quý nhân, đại thiện tri thức nâng đỡ cho các việc phúc thiện lợi mình lợi người. 
      Xét chung về năm 2014 ta được Thiên thời và Nhân hoà là có nhiều vận hội mới. Để được địa lợi thì phải năng làm việc bố thí và phóng sinh. Phải hiểu việc phóng sinh ngoài cứu mạng các loài vật thì giảm bớt các việc bất thiện từ thân, miệng, ý hại mình hại người cũng là sự phóng sinh Tâm hết sức cần thiết. 
     Như vậy năm Giáp Ngọ theo Thiên Địa Nhân đối với dụng sự chúng ta cần năng làm việc thiện tích phúc đức để tương ứng với cách Thiên văn mà được quẻ Sinh khí có đầy đủ Tài Lộc, hưng vượng.  Mọi việc nên thuận theo chính lý là luôn tinh tiến cố gắng để vượt qua khó khăn ban đầu, sáng suốt nắm bắt vận hội mới với sự sáng tạo cao nhất ( ứng với cách Ly hoả thuộc Trí của quẻ kép chung ) thì về sau mọi việc đều được tốt đẹp. Đó là cách cục của quẻ kép Thiên Hoả Đồng nhân xét chung cho cả Thiên Địa Nhân của năm Giáp Ngọ 2014.

 .Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng.