Phép tu Tịnh Độ
Thường ngày sau mỗi thời hành trì, dù là
tụng kinh trì chú hay toạ thiền, chúng tôi thường kết thúc bằng lục hoằng thệ
nguyện như sau:
Chúng
sinh vô biên thề nguyện độ
Phiền
não vô lượng thệ nguyện đoạn
Pháp môn
vô lượng thệ nguyện học
Phúc trí
vô biên thệ nguyện tu
Như Lai
vô số thệ nguyện thị giả
Phật đạo
vô thượng thệ nguyện thành.
Pháp môn tu Phật thật là vô lượng, người
con Phật đã phát tâm Vô thượng Bồ đề thì phải tinh tiến tu học theo các pháp
môn Phật dạy để dần thanh tịnh thân tâm, học rộng để đắc Bát Nhã trí, song song
độ mình độ người để cùng giải thoát mọi sự huyễn hư. Cái nhân Tinh tiến nhiều đời
nhiều kiếp như thế cái Quả vị lai sẽ hội đủ ba đức của Niết Bàn gồm: đại Pháp
thân là thật thể, đại Bát Nhã là thật trí, đại Giải Thoát là thật dụng.
Về phương diện Y Báo, thành Phật chính
là biến cõi thế giới của mình thành cõi Tịnh Độ, Tịnh là thanh tịnh không có uế
trược, Độ là môi trường phong thuỷ xuất thế gian ( Sở duyên duyên) để hoá độ
chúng sinh.
Như vậy, pháp tu Tịnh độ vốn vô lượng, học
mấy cũng không tới, suy nghiệm mấy cũng không cùng. Nhân duyên cùng sam học
cùng chư vị đạo hữu, Quảng Kiến tôi nay tổng hợp các bài giảng của Ngài Trưởng
Giả Tâm Minh Lê Đình Thám mong mỏi chia sẻ kiến thức Phật học, tất cả cùng chiêm
nghiệm và ứng dụng giáo lý của Phật, chắn chắn hiện tại sẽ được đôi phần tự chủ
mà công đức tu học về sau thật khó thể nghĩ bàn.
Phép tu Tịnh độ vẫn vô biên vô lượng,
nhưng ước lượng cũng có thể gồm trong ba cách là: phép tu thật chứng Tịnh Độ,
phép tu Tạo thành Tịnh Độ, phép tu vãng sinh Tịnh Độ.
I. Phép
tu thật chứng Tịnh độ
Phép tu này cốt để cho người tu hành thiết
thật chứng được cảnh giới thanh tịnh.
Kinh Hoa
Nghiêm có câu “ Nhất thế duy tâm tạo”, nghĩa là mọi sư sự vật vật đều do tâm tạo
ra. Đạo lý duy tâm rất vi diệu, nhưng trong đời sống bình thường cũng có thể
xét nhận rõ ràng. Như trong một cảnh, đồng một việc, người ưa thì thấy đẹp hay
ho, người ghét thì thấy xấu xa vụng về, đó là một ví dụ về hoàn cảnh thường tuỳ
theo tâm niệm mà thay đổi. Ở giữa đời biết bao nhiêu cảnh làm cho người cười kẻ
khóc, người vui mừng kẻ buồn tức; lại người đương vui thì thấy cảnh nào cũng
tươi đẹp, người đương lúc buồn thì cảnh nào cũng đeo sầu, vậy là tâm tạo ra rõ
ràng. Thế mà chúng ta không rõ lý duy tâm, gặp cảnh ưa thì nghĩ thật đáng ưa mà
sinh lòng tham, gặp cảnh mình ghét thì làm ra những nghiệp sát, đạo, dâm, vọng,
làm tổn hại cho mình cho người. Vì chúng ta còn tham chấp như vậy nên trong cảnh
giới duy tâm, chúng ta mới phát ra năm điều ham muốn là Ngũ dục. Ngũ dụng là
tài, sắc, danh, thực, thuỵ: Tài là ham muốn của cải, sắc là ham muốn sắc đẹp,
danh là ham muốn danh tiếng, thực là ham muốn ăn uống, thuỵ là ham muốn ngủ nghỉ.
Năm điều đó làm cho chúng ta say mê theo hoàn cảnh, dong ruổi theo hoàn cảnh, không
lúc nào được thanh tịnh; mà tâm không thanh tịnh thì cảnh giới cũng hoá thành
không thanh tịnh. Vậy người tu hành muốn thật chứng Tịnh độ trước hết cần dứt
trừ năm điều ham muốn ấy, lấy sự dứt trừ ấy làm cái hy vọng, cái mục đích của
cuộc đời mình, hằng ngày xét rõ cái nguyên nhân và cáu kết quả xấu xa của nó mà
chán hẳn đi thì một ngày kia mới được ra khỏi vòng Ngũ dục và được tâm ly dục.
Tâm được ly dục thì cảnh giới sẽ hoá ra an vui trong sạch, không còn gì làm cho
tâm phải buồn rầu đau đớn nữa. Chừng ấy mới đem tâm ly dục mà tu phép Vô ngã để
ra khỏi luân hồi, tu phép Bất nhị để chứng tính Chân như: Tâm càng thanh tịnh
chừng nào thì cảnh giới càng thanh tịnh chừng ấy, đó là phép tu hành thật chứng
Tịnh độ.