Nhân ngày 9 tháng 9 năm Quý Tỵ giờ Thân (
15-17 giờ), luận theo can chi theo phép an vị 12 thần tướng Dược Soa thị giả
cho Phật Dược Sư ở cõi Tịnh Lưu Ly được quẻ Lôi Thủy Giải, nghĩa là có được sự
giải thoát. Đây cũng là giờ an táng Ngài Đại tướng của lòng dân, Đại tướng Võ
Nguyên Giáp.
Ông ra đi cũng như cuộc đời 103 tuổi, từ chiến trận đến
hòa bình, từ khi sinh đến khi từ trần. Sự sự việc việc đều tuân theo luật thành
trụ hoại không, sinh lão bệnh tử. Đại tướng của lòng dân có nghĩa là đã chiến
thắng được cái tâm đế quốc của kẻ thù, đã chiến thắng được bản tâm mình mà lan
tỏa cái tính thiện vì tha nhân đến muôn người. Ngài Đại tướng ra đi trong niềm
thương tiếc của nhân dân. Cũng như các vị tướng huyền thoại từ cổ chí kim để có
được Văn - Võ - Phúc - Thọ - Quyền, bách chiến bách thắng giặc ngoài thì trước
hết các Ngài phải thắng được cái tâm mình và tâm người. Bởi nếu không được Nhân
hòa thì thiên thời , địa lợi phỏng có ích gì. Bởi có Nhân hòa nên mới sáng tạo
ra chiến lược chiến tranh nhân dân, để lấy ít thắng nhiều, lấy yếu thắng mạnh.
Ngày Đại tướng về với đất mẹ Quảng Bình trên nền nhạc
tha thiết của bài hát ‘Quảng Bình quê ta ơi’và có đầy đủ sự sắp xếp kỹ lưỡng, sự
góp mặt điều hành của lãnh đạo, tướng lĩnh. Phần mộ được lựa chọn sa án có đảo
yến, trước mặt có Vũng chùa, tả thanh long hữu bạch hổ đầy đủ cách cuộc, trải
qua bao khó khăn tìm chọn đã được nhà nước tác thành. Nói vậy mới thấy việc ra
đi hay cuộc sống chiến đấu của Đại tướng cũng đầy đủ âm, trận, tướng, hướng,
chướng. Như vậy mới hay vạn sự trong thế giới đều như thế mà sinh, như thế mà
thành, tất cả đều theo quy luật duyên sinh rồi duyên diệt. Đại tướng đi rồi nhưng thế giới còn mãi sự thán phục tài năng của một vị tướng tài, người đã thấu
rõ và vận dụng linh hoạt vượt qua chướng ngại, để khi ra đi chọn được sự giải
thoát.
Thời bình thương trường cũng như chiến
trường để thành công kẻ hậu thế nên noi gương sống của người xưa mà rèn dũa tâm
tính để từ thế gian tiến lên xuất thế gian mà có được sự giải thoát là hoàn
thành các sơ nguyện của chính mình và giúp người khác cũng được như vậy.
Cũng như Đại tướng Võ Nguyên Giáp và các vị tướng súy nổi
tiếng xưa nay, theo binh thư ghi chép lại, người tướng tài phải rõ được :NGŨ ÂM
- NGŨ TRẬN - NGŨ TƯỚNG - NGŨ HƯỚNG - NGŨ
CHƯỚNG.
Nói về Ngũ âm là nói về năm âm thanh
gốc của vũ trụ không thay đổi là Cung, Thương, Giác, Chủy, Vũ.
Về Ngũ trận pháp, cổ kim có 5 loại
trận pháp căn bản từ đó biến dụng ra mà dùng đó là:Thiên Trận, Địa Trận, Nhân
Trận, Thần Trận, Nhẫn Trận.
Luận về Ngũ tướng là nói về 5 hạng
tướng, bao gồm:
- Thần tướng: Lấy thời để tỏ bày, lấy đất để biến hóa,
lấy Nhân để sử dụng.
- Cường tướng: Hạng tướng không cần xét thiên thời địa
lợi khi hành binh, ai nghe đến cũng sợ hãi ( Trương Phi)
- Mãnh tướng: Giỏi về biến hóa trận thế, ra quân bất
ngờ, cử động thần diệu, một ngựa một kiếm tung hoành về phía trước.
- Lương tướng: Bên ngoài thì uy nghêm, bên trong thì dữ
tợn, ở giữa thì mạnh mẽ.
- Uy tướng: Lấy tín nghĩa, thưởng phạt rõ ràng.
Tướng hay có năm điều: Dũng,Trí, Nhân, Tín, Trung. Dũng
mà coi thường cái chết dễ bị hại, Trí mà nhút nhát thì khốn đốn, Nhân mà ái kiến
thì sinh phiền nhiễu, Liêm mà không thương người thì bị khinh nhờn, Cương mà chỉ
theo ý mình thì thành tai hại. Nhu mà hay nghe người thì bị chèn ép.
Bàn về cái hạnh xưa nay của người làm tướng
thì đối với mình phải trong sạch, đối với kẻ sĩ thì quý trọng. Bởi thế cho nên
nếu tướng súy không nghe lời khuyên can thì các anh hùng sẽ lẩn tránh; tướng
không nghe theo kế sách hay thì mưu sĩ sẽ bỏ đi; coi thiện ác như nhau thì kẻ
hiền và người ngu ở lẫn lộn, thưởng phạt lẫn lộn thì giềng mối sẽ tan rã; thường
mừng thì thiếu uy nghiêm; thường giận thì lòng người xa lìa; nói nhiều thì cơ mật
tiết lộ; ham thich nhiều thì tâm trí nghi ngờ, mê loạn: khoan dung thì làm cho
quân sĩ cảm kích, hung bạo thì làm cho quân sĩ tức giận.
Cho nên
phương châm sống của tướng súy nên:
Khinh rẻ
tiền của, sắc đẹp để giữ mình trong sạch;Tránh xa việc hiềm nghi để vượt lên; Lặng
lẽ lo xa để khỏi thất bại; Tùy theo thời cơ mà biến hóa cho thuận tiện để lập
công; Rộng rãi với người, dốc lòng làm việc để quy tụ tình thương; Nghe điều
lành, đuổi bỏ kẻ gièm pha để tiến xa; Trước đo lường, sau hành động để mà ứng
biến; Trước tin sau nói để hàng phục kẻ dưới; Trừng phạt tội lỗi, tưởng thưởng
công lao để sửa người; Xét xưa rõ nay để soi sáng cho người; Coi rẻ sắc đẹp,
quý trọng người để được người; Lìa bỏ việc tư, liều thân vì việc công để giữ nước;
Thần sắc phải ngay thẳng, hình dung phải đoan trang; Đánh trận như sấm sét, sắp
đặt khéo léo như quý nhân; Suy tư như ánh chiều, mệnh lệnh như sương tuyết; Được
như thế mới đảm đương được việc lớn của quốc gia.
Việc đánh trận cần nắm chắc mười hai cách
chắc thắng: Thứ nhất là liên hình, thứ hai là địa cấm, thứ ba là toàn quân (
như nhau để liên kết), thứ tư là mở cửa ( giao đất để liều chết làm tròn trách
nhiệm. Thứ năm là chia giới hạn, thứ sáu là phân biệt rõ ràng, thứ bảy là ngũ
chướng, rõ ràng đường lối, thứ tám là toàn khúc chia làm nhiều bộ phận để dễ biến
hóa, thứ chín là kim cổ là cất nhắc kẻ có công, trọng dụng kẻ có đức. thứ mười
là trận xa ứng dụng linh hoạt phương tiện, thứ mười một là tử sĩ là những kẻ
tài trí trong ba quân, tung hoành dùng mẹo lạ để chiến thắng, thứ mười hai là lực
tốt nghĩa là coi sóc mọi chỗ không lay chuyển. Dạy quân thành thục mười hai
phép trên, ai trái lệnh không tha thứ. Được như thế thì có thể làm cho binh yếu
trở nên mạnh.
Luận về Ngũ HƯỚNG: Hướng thì có Nam, Bắc,
Tây, Đông, Trên dưới, nói về thiên văn địa lý thì Nam thuộc khí Thổ hợp với mệnh người
thì thuận, hợp với sự việc thì thành, về Bắc thuộc Kim, Đông thuộc Hoả, Tây thuộc
Thuỷ, cứ theo tương sinh thì được lợi, tương khắc thì gặp
nhiều khó khăn.
Luận về NGŨ CHƯỚNG: Về Thiên thời thì luận
theo ngũ hành mà rõ tượng rõ thời, Địa lợi thì xét thấp cao nông sâu mà dụng sự.
Về thế sự, nhân tình thế thái là Nhân hòa, có năm cái mà xấu thì tạo ra năm cái
chướng từ Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín. Tương ứng là bất nhân, vô lễ, bất nghĩa, vô trí, bất
tín. Bất Nhân thì không có người giúp, vô lễ thì bị coi rẻ, bất nghĩa thì bị
khinh thường, vô trí thì dễ bị lừa mà mang họa, bất tín thì không có sự giúp đỡ.
Năm cái chướng thế gian này trong chiến trận thì thất bại, trong cuộc sống thì
bất thành. Gọi là phạm ngũ chướng của Ngũ thường.
Tiến lến xuất thế gian thuận theo pháp giới
tính là tính chung của pháp giới (pháp là phân biệt, giới là giới hạn) mà hành
sự thì vừa lợi mình, lại lợi cho người, bởi tính trùng trùng duyên khởi chính
là thật tính của vạn pháp, là thật Tâm thật Tính của chúng sinh và vạn vật. Về
Nhân xuất thế gian là Bố Thí, về Nghĩa xuất thế gian là Trì Giới, về Lễ xuất thế
gian là An Nhẫn, về Tín xuất thế gian là Tinh Tiến, về Trí xuất thế gian là Thiền
định. Đó là nhân bỏ được cái chướng ngại của thế gian mà tu hành theo pháp Ba
la mật của Nhà Phật thì Quả: ‘vạn pháp tự nhiên thành’ là câu kệ thị tịch của Tổ
Sư Đạt Ma.
Như vậy thành bại trong thương trường hay
chiến trường đều phụ thuộc vào việc nhận thấy Ngũ chướng mà tu Ngũ Ba la Mật để
được Trí tuệ Ba la mật là Lục Độ Ba La Mật thì ngoài tâm mình còn độ được tâm của
vạn người, theo cái Nhân trong dẹp được Ngũ Ấm Ma, thành tựu cái Quả là Giải
thoát tức là bình được cái Tâm Địa thì trên có Thiên Thời, dưới có Địa Lợi, giữa
có Nhân hòa đều được an và ổn cả, cho nên:
Về thế
gian:
‘Khéo thua
không bị chết
Khéo đánh
không bị thua
Khéo bày
trận không cần đánh
khéo cầm
quyền không cần bày trận
Khéo đạo
không cần dụng binh.’
Về Xuất thế
gian
Khéo Nhẫn
thì An (lành)
Khéo cho
(bố thí) thì có
Khéo giữ (
giới) thì yên
Khéo Thiền
( định ) thì sáng ( tỏ)
Khéo Tinh
( tiến ) nhanh sang ( bờ giác).
Khéo chọn
thì Anh (minh)
Khéo nguyện
sớm Thành ( tựu)
Kinh Kim Cương nói rằng: "Có chất bảy báu thế
gian cao bằng núi Tu Di thì cũng không bằng trì Tứ Cú Kệ!."
Như vậy pháp
thế gian dù có khéo đến mấy cũng chỉ là hòa-hợp-đối-đãi của sự huyễn và tướng
huyễn, mà đã Huyễn chắc chắn sẽ Hư.
(Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng)