Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Quảng Kiến. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thơ Quảng Kiến. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 19 tháng 4, 2025

Đêm trăng mây gió

 

Đêm ơi!
Ta hỏi đêm này,
Bao giờ đêm sáng
Như ngày không mưa. 


Trăng ơi!
Sáng ở góc trời
Để cho chồi nhỏ
Tựa cành đung đưa. 


Mây ơi!
Hãy nhớ núi cao
Gió ơi !
Hãy nhớ rì rào trên cây


Người ơi!
Đời khổ lắm ư?
Chân tâm ơi dậy!
Xoá tù vô minh.


Ta ơi!
Sống với chân tình,
cùng bao đạo hữu
tình thân Đạo Tràng. 

Thứ Hai, 28 tháng 10, 2024

Xuân Hạ Thu Đông sáng với chiều


 Xuân Hạ Thu Đông sáng với chiều

Thế gian hết giận lại rồi yêu
Trẻ người non dạ tìm hư ảo
Già lão thân mòn cố bước xiêu
Ham của đèo bồng, thêm nặng nợ
Mơ màng danh vọng, ít mong nhiều
Có-Không huyễn cảnh người nên nhớ
Tham dục xa rời tránh ma-tiêu.

Chủ Nhật, 9 tháng 6, 2024

A LAN NHÃ


Trong bài thơ ngắn này, chúng ta sẽ được dẫn vào chốn A Lan Nhã, nơi tâm hồn được mở rộng và tĩnh lặng. Bài thơ kể về sự tự giác, tu pháp và lòng từ bi, mang đến sự thanh thản và bình an cho cuộc sống. Mời bạn cùng khám phá những dòng văn tinh tế và sâu sắc về đạo Phật. ( lời giới thiệu của Evernote AI)

Chốn A Lan Nhã
Tâm rời vội vã
Quán pháp sâu xa
Một là tất cả.

Chốn A Lan Nhã
Tự giác, giác tha
Tu pháp Phật Đà
Từ Bi Hỷ Xả.

Một là tất cả
Sống đời vị tha
Phá ngũ ấm ma
Đắc Tát đát đa.


(Hình ảnh và bài thơ là nơi Quảng kiến ẩn tu tại Paske Lào năm 2012)

Thứ Năm, 20 tháng 10, 2022

CHÙA THIÊN MỤ



Bảy tầng tháp cổ giữa hàng cây
Chuông điểm pháp âm tiếng vọng đầy
Thoang thoảng trầm hương vơi tục lụy
Mơ màng danh vọng chợt tan ngay
Bến xưa thanh tịnh đang chờ đợi
Thuyền lạc chốn nào hãy tới đây
Phật tích chuyển lưu Hương Giang chảy
Bóng chùa Thiên Mụ ẩn trong mây.
.HHQK.

Bình thơ
    Tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ có 7 tầng, mỗi tầng tôn trí thờ một vị Phật. 
Bảy vị Phật gồm: Phật Tỳ Bà Thi, Phật Thi Khí, Phật Tỳ Xá Phù, Phật Câu Lưu Tôn, Phật Câu na hàm Mâu Ni, Phật Ca Diếp, Phật Thích Ca. 
    Chư Phật từ quá khứ đến hiện tại đều giáo hoá chúng sanh bằng pháp Trung Đạo. Nên thơ viết:
 " Bảy tầng tháp cổ giữa hàng cây”.  Giữa- hàng-cây" là mô tả sự tánh không thiên chấp vào pháp nào dù là tịnh hay nhiễm, dù là hơn hay kém, dù là có hay không, nghĩa là lìa tất cả đối đãi thế gian thế tục. Tất cả đều là phương tiện hoá độ, một niềm bình đẳng dù có vô số nhánh pháp duyên khởi thiện ác trong cõi lục đạo. Đệ nhất nghĩa đế Trung Đạo là nói đến Tôn chỉ tối thượng dù hiện hay ẩn, dù đang thuyết pháp hay tịch tĩnh Niết Bàn. 
    Tuỳ tâm chúng sanh từng thời mà có ít người học hay nhiều người ngộ. Nên thơ viết tiếp " Chuông điểm pháp âm tiếng vọng đầy”. Chuông chùa tượng trưng cho pháp Phật, là pháp vi diệu có năng lực chữa lành. Lời dạy của Phật giúp chúng sanh hiểu được thế giới vô thường, khổ, không ,vô ngã, từ đó vơi đi khổ não phiền muộn bằng cách xoay ác làm lành, cải hoá đời sống hiện tại, không còn mơ mộng cái danh lợi nhất thời, tiến lên loại trừ các nỗi niềm không thực, tự tại với cái có cái không… Hai câu thơ sau nói đến những điều như vậy :
" Thoang thoảng trầm hương vơi tục luỵ.
Mơ màng danh vọng chợt tan ngay ".
    Phật chỉ bày cho chúng sanh về Phật tánh thường trụ, không có thêm ở thánh, không có bớt ở phàm, chỉ vì chúng sanh tham ánh trăng tà mà lạc chốn mê. Nay nghe giáo pháp tỉnh thức “ chuông vọng,", nhận được niềm an vui những khi hành thập Ba la mật, từ hạnh : bố thí, trì giới, an nhẫn, tinh tiến, thiền định, Trí tuệ, Đại Phương tiện, Đại nguyện, Đại Lực, Đại trí. Tu hành theo Thập Ba La Mật như vậy dần sẽ chứng diệt được từng phần giải thoát hương, dù ban đầu mới " thoang thoảng", miễn có lòng tin thì " Bến xưa thanh tịnh đang chờ đợi. Thuyền lạc chốn nào hãy tới đây". 
    Dòng sông vẫn chảy, dòng đời vẫn trôi, chư Phật vì lòng bi nguyện Pháp thân các Ngài vẫn ngự ở nhân gian, không quái ngại độ sanh hết đại kiếp này đến đại kiếp khác từ Phật quá khứ đến Phật hiện tại rồi phú chúc hạnh nguyện lại cho chư Phật tương lai. Dòng chảy Phật pháp không ngừng nghỉ như dòng Hương Giang muôn đời kiếp chưa từng ngừng chảy.
    Tam Bảo hiện tướng trong các ngôi chùa thanh tịnh, ở đó có tăng bảo đêm ngày tu học và phương tiện giáo hoá chúng sanh. Chỉ với chúng sanh nào đã vơi bớt mê mờ ( hữu duyên ) thì mới thấy ánh đạo vàng mà cầu tìm pháp giác ngộ. Nên mới nói
" Phật tích chuyển lưu Hương Giang chảy.
Bóng chùa Thiên Mụ ẩn trong mây".
    Như vậy chúng sanh mê vọng tài sắc thanh thực thuỵ là bị đám mây vô minh che mờ nên không thấy được ngôi Chùa thanh tịnh ngay trong tâm mình, còn nếu nhìn với tâm vọng cầu thì chỉ thấy tướng chùa thấp thoáng ẩn trong mây mờ mà thôi, và mãi không thể tới nơi được.

Thứ Bảy, 14 tháng 12, 2019

Tâm xưa Tâm nay

Chẳng phải Thu về Nhạn mới bay
Cười cho thế sự trả rồi vay
Sao không chính niệm rời năng sở
Tỏ bản tâm xưa chẳng khác nay
---

Ý NÓI:
Chân Tâm vốn thường yên lặng, không hình tướng lay động biến đổi, không sinh diệt đi lại. Cũng như bóng Nhạn bay qua dòng sông trong bước tao ngộ tình cờ. Tâm chân thật là Như Như bất động, tự tại không gì lay chuyển được. Còn vọng tâm ở ngoài chỉ là cái bóng giả hiện lên biến đổi luôn luôn như bóng nhạn dòng sông. Nhạn đến nước không giữ hình,  Nhạn đi mặt nước không lưu ảnh. Có chăng chỉ là vọng thức duyên theo các cảnh mà thành ra có với không. 

Thứ Bảy, 14 tháng 9, 2019

Mưa hoa


















" Mưa hoa rơi khắp thế gian
Thoại-đầu khai mở tâm nàng là tôi
Mười phương thế giới chia đôi
Nửa trong hạt bụi, nửa nơi Niết Bàn. "

Mạn đàm:
Tâm chưa phải là Phật vì tâm còn có hai phần chân và giả. Cũng như quặng tuy có vàng nhưng vẫn lẫn đất đá tạp chất. Vậy tâm cũng có cả tính thiện nhưng lẫn cả tính ác và tính vô ký ( không phải thiện ác ). Điều này giải thích cho việc nhiều người nói Phật trong tâm cần gì phải tu. Bởi Phật trong tâm là Phật nhân chưa phải Phật quả, cần trải qua quá trình tu hành theo chính duyên là các pháp môn Phật dạy ( như vàng cần phải sàng lọc ) thì mới chính nhân kết hợp với chính duyên thành chính quả. 
Trí chưa phải là đắc vì trí cũng có 2 phần là Trí thế gian và trí xuất thế gian. Trí thế gian làm ra vật dụng máy móc lợi người nhưng cũng làm ra vũ khí giết người. Trí xuất thế gian chỉ có một mục đích là soi sáng cho chúng sinh tiến vững bước đi đến giác ngộ, giải thoát.

Đạo là con đường chân chính sáng suốt tốt đẹp. 10 phương 3 đời quá khứ, hiện tại, tương lai chư Phật đã đi qua con đường ấy đến đích là thành Phật và hiện đang dắt dẫn chúng sinh đi đến con đường ấy tránh thoát mọi con đường tà ác.

Thứ Tư, 11 tháng 9, 2019


























Nhìn xa xa phía chân đồi
Thấy đôi cánh nhạn lưng trời bay cao
Trong ta có ngọn mưa rào
Theo chuông chùa vọng đổ vào trần gian
---
Luận về Chiếu kiến trong Bát Nhã tâm kinh
Kiến là nhìn là thấy, Chiếu kiến là xem xét nhận diện cái thấy biết của thức với căn cảnh trần. Như vậy,
"Chiếu kiến là Chân tâm bởi thường thanh tịnh sáng suốt
Lời bàn của Quảng Kiến: 
Kinh Phật dạy, chúng sinh có vạn pháp bách tâm. Trong vô lượng phương tiện có môn pháp tướng ( Duy Thức ), nói về 52 tâm sở , trong đó chỉ có 11 tâm sở thiện, còn lại là phiền não tâm sở và tâm vô ký. Tâm sở biến hiện ở căn-cảnh-trần-thức, theo duyên mà vận, khởi tướng mà hành. Các tâm sở hữu vốn bị ô nhiễm bởi căn và trần. 6 căn gồm ( mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, ý....), 6 trần ( sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp), Sở hữu tâm nương theo thức phân biệt mà tạo ra cảnh giới huyễn hoá, khi có khi không. Làm cho chúng sinh khi lên khi xuống, khi được khi mất, lúc khổ lúc vui không lường. 

Để trở về với bản tâm chân thật, Phật dạy đệ tử của mình thường phải chiếu soi, nhận rõ động tĩnh, thực ảo, của vọng tâm mà trừ, thì được thanh tịnh. Thường nhận thức được sự phân biệt của tâm mà sàng lọc, gọi là Kiến, từ đó có được thân thanh tịnh, trí sáng suốt, hiển hiện trong cả ý niệm lẫn hành động, như vậy sớm muộn sẽ trở về với bản tâm chân thật, gọi là Chiếu Kiến.

Chủ Nhật, 17 tháng 8, 2014

Mẹ Bát Nhã

Mẹ
----
Mẹ từ tự tính sinh ra
Nuôi con khôn lớn, dạy xa não phiền
Nơi võng ru, tới mọi miền
Nương nhân duyên khởi, tu thiền quán Không.
Mẹ là gọi nước lành trong
Xoá tan hư huyễn, thong dong đi về
Mười phương cũng một miền quê
Làm duyên khai ngộ, giác mê cho người
Mẹ là một đoá hoa tươi
Điểm tô chân lý ở nơi hồng trần
Vì chúng sinh hiển pháp thân
Từ Bi hỷ xả thập phần viên thông.
Vạn kiếp Mẹ vẫn dõi trông
Giúp đàn con sớm thoát vòng tử sinh
Người là Bát Nhã Tâm Kinh
Dìu con từng bước tiến trình khai Tâm.
-------
          Nhân tháng Vu Lan, người người tưởng nhớ công ơn của cha mẹ sinh thời cũng như cha mẹ ở các đời quá khứ. Công ơn cha mẹ thật cao lớn như núi, rộng như bể cả. Theo nhân duyên, mỗi người cha người mẹ đều lo lắng cho con cái suốt cả cuộc đời nhưng với người con hư và bất hiếu thì tình cảm bố mẹ thế gian có khi giảm đi ít nhiều bởi tập khí phiền não của phàm nhân. Trong khi đó chư Phật chư Đại Bồ Tát luôn dõi theo sát chúng sinh đời đời kiếp kiếp với tâm từ bi không khi nào vơi, không bao giờ lui sụt dù chúng sinh có lên thiên giới hay xuống địa ngục. Nói thế mới biết ơn chư Phật Bồ tát thật là vô lượng vô biên. Chúng ta đối với cha mẹ phải có tâm như đối với chư Phật vì cha mẹ cũng là chúng sinh sẽ thành Phật ở đời vị lai, có người nói Cha Mẹ ở nhà là Phật là chưa thật rốt ráo, nói: Cha Mẹ là Phật tương lai và tâm chúng ta những người con đối với cha mẹ hiện thời phải là tâm đối với Phật mới đúng. Tâm đó là tâm hạnh, tâm hiếu kính, quy ngưỡng.
Nhân ngày Vu Lan Quảng Kiến viết bài thơ Mẹ và mấy câu về lý chia sẻ với chư đạo hữu, nguyện cùng đồng sự đến thời vị lai đồng đắc chính đẳng chính giác. Đây mới là tâm Đại hiếu của người con đối với Cha Mẹ, đối với Phật.
Nam mô Bản Sư Thích Ca Mâu Ni Phật!

Thứ Sáu, 18 tháng 7, 2014

Thơ gửi Thầy


Amitabaha!
Kính bạch Thầy!
         Đệ tử Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng về Trường Hạ vào ngày Bồ tát thành đạo, được diện kiến vấn an Thầy. Con vui lắm vì Thầy rất hoan hỷ, pháp thể người vẫn được khinh an. Hôm nay con xem lại đĩa DVD " Sáng mãi một vầng trăng" gặp lại hình ảnh Thầy năm xưa, hình ảnh Thầy gầy gò cổ kính làm cho đệ tử thấy chạnh lòng thoáng trong tâm. Con định gọi điện thoại tới Thầy nhưng không được, con vào email viết mấy dòng, gửi Thầy: nguỵên cầu Tam Bảo gia hộ Thầy để cho mọi sự Thầy đều được như sở nguyện. 
        Đệ tử từ khi được Thầy từ bi hóa độ, giác ngộ Phật đạo, thật là ơn đức vô lượng. Cuộc đời con gần như thay đổi kể từ chuyến thị giả Thầy đi Ấn độ, nhờ ơn giáo hóa của Tam bảo con nhìn mọi việc được thấu đáo hơn, không sợ người ta nghĩ gì mà chỉ sợ mình không tinh tiến mà thôi, hàng ngày con đều dành thời gian hành trì pháp môn Đại Bi theo bộ nghi quỹ tu trì mật giáo mà thầy đã bố thí. Thời gian khoảng 1giờ 30 phút sau khi hành trì con thường ngồi tĩnh tọa để suy tư về các vấn đề của Đạo Phật. Cứ như thế mỗi ngày thân tâm con đều được an lạc, chống lại được các phiền não của cuộc sống. Con nhận thức được rằng, có nhân thì ắt có quả, mọi việc đều có nhân duyên, con đường làm kinh tế của con bây giờ khác ngày xưa, con tránh sự ăn nhậu và các quan hệ làm tục, ăn tục. 
           Một hôm con ngồi thiền quán với câu hỏi tại sao Chư Phật lại không độ trì cho mình khi đang gặp khó khăn?. Con mới nhận ra rằng chư Phật Bồ tát chỉ trợ duyên cho chúng sinh khi sự việc phù hợp với con đường tu chứng. Đệ tử thật vui mừng vì nhận ra thành Phật là cả con đường chứ không phải là thời điểm thị hiện. Giờ đây đệ tử cố gắng sống và quán niệm theo lời dạy của Thầy. " Tự tính kỳ Tâm", theo duyên mà không đổi, không đổi mà theo duyên. Mọi sự dù huyễn hư thế nào thì tính của phiền não đó cũng là tính của Bồ đề.  
             Mỗi độ gần Thầy đệ tử cảm thấy trong ánh nhìn và lời nói của Thầy với đệ tử đầy lòng từ bi, đó là sự khuyến tấn khích lệ lớn vô cùng. Con biết Tín càng lớn thì Giải càng chóng, một lúc nào đó đủ nhân duyên Thầy từ bi chỉ Giáo con sẽ tinh tiến Giải-thông để khỏi phụ lòng Thầy. Đệ tử biết làm học trò mà không tinh tiến để trả công ơn giáo hóa mới là người trò không trọng Thầy mình. Đúng như Thầy đã dạy, nói nhiều không bằng làm nhiều. Con đường giác ngộ là con đường trở về với tâm nguyên của mình, xóa bỏ được vô minh thì tâm mình đồng với tâm Phật. Con cũng không phải hay làm thơ để tiêu khiển hay giết thời gian mà là để quán niệm cảnh hiện tiền với giáo lý mà mình học được, kịp ghi lại ngắn gọn theo thể thơ để nhớ không quên. Lại cũng không tự hào vì mình viết được nhiều thơ bởi con biết cỗi gốc của Tưởng-ấm là sự nhớ-quên, bỏ mọi vấn vương thì mới xa rời được Thức-ấm. 
              Thời gian vừa qua và thời gian tới đây Đệ tử ở nơi xa không có nhiều thời gian được thị giả Thầy, lúc gần thì lại chưa có dịp bạch Thầy nên con viết email có hơi dài. Nay con viết mấy bài thơ ngắn mong Thầy tỏ tâm hướng xuất thế gian của con, kính Thầy đọc và giáo huấn thêm cho. 
               Cuối thư con nguyện Thầy có đủ thuận duyên, thành công trong nhiều chương trình có tính lan tỏa lớn để giáo hóa chúng sinh. Phát huy Đại Hạnh, Đại Trí, Đại phương tiện của chư Phật.
Amitabha!
----------------------------------------------------------------------------
Con đường giác ngộ là con đường trở về với tâm nguyên của mình, 
xóa bỏ được vọng tưởng vô minh thì tâm mình đồng với tâm Phật.

CON đã biết dòng đời huyễn mộng
ĐƯỜNG tu hành tỏ sắc là không
GIÁC : tâm mình vẫn đồng tâm Phật
NGỘ: vạn vật hóa từ Chân Không.

CON đã biết vạn sự khởi duyên
ĐƯỜNG chông gai có Bát nhã thuyền
GIÁC tâm mình vẫn đồng tâm Phật
NGỘ rồi vạn vật tự uyên nguyên.

CON hiểu rằng không tu mãi khổ
ĐƯỜNG tu chứng có đâu nơi chỗ
GIÁC tâm mình vẫn đồng tâm Phật
NGỘ pháp tính chẳng tế chẳng thô.

CON vẫn biết Văn rồi phải Tư
ĐƯỜNG Tu hành để bỏ huyễn-hư
GIÁC tâm mình vẫn đồng tâm Phật
NGỘ lý rồi thấy sự Như Như.

CON vẫn biết tu sẽ có phần
ĐƯỜNG đời nên sống không "hoa-cân"
GIÁC tâm mình vẫn đồng tâm Phật
NGỘ pháp rồi "hành" được Pháp-thân.
---
"hoa-cân": hoa sáng nở tối tàn, cân đong đo đếm.

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2014

Tìm em

D


Tìm em ở bến chân tâm
Giong thuyền Bát-Nhã âm thầm anh qua
Duy-thức tướng sóng gần xa
Lăng-nghiêm đại định bao la đất trời
Pháp-Hoa, một đoá sen tươi
Ngời trong ánh mắt mười phương ta bà
Chính Tà một thể Duy-Ma
Rời xa vọng tưởng Lăng-Già truyền trao
Tĩnh tịch mặc kệ Trần xao
Thấy em vẫn đó, chưa bao giờ rời!

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2014

Maha Tát đát đa, Bát lát đa


Xa xa
Dáng Hạc thong dong,
Đầy sân bóng đổ
trong ngần ánh trăng.
Trong ta
bóng tối đang nằm,
Bỗng! vần thơ cũ
trổ mầm đi ra...
...Ma ha
Tát đát đa!
Bát đát ra!

Thứ Ba, 11 tháng 3, 2014

Chùm thơ tết Quảng Kiến

Lý Sự viên thông là khai Trí
Face Book hướng thượng ý khai Tâm. 

... Chúc hành giả năm mới Hành được Thâm, nhập sâu Bát nhã!.

Mở cửa sáng nay vệt nắng vàng
Nghe Trầm hương thoảng rõ Xuân sang
Trong nhà ríu rít tiếng cười trẻ
Ngoài ngõ Ngựa xe đã sẵn sàng...
...Giáp Ngọ đây rồi.. Đời, Đạo thênh thang, Đạo hữu ơi!... Tinh tiến lên đàng... Bến giác sớm sang!

Xuân về cũng thấy giống Thu sang,
Ngoài ngõ trong nhà vẫn nắng vàng.
Xuôi ngược bôn ba theo sự-lý,
Chi bằng dừng tại chốn không-mang!

Rõ cái nghiệp nhân ở thế gian,
Tam ân, tứ trọng chẳng còn bàn.
Buồn chờ Xuân tới trông đào nở,
Vui đến lặng nghe tiếng trúc than.
Ý vụng, học sâu tăng trí tuệ,
Tâm không, phá vỡ mọi nguy nan.
Rồi khi rảnh rỗi lên đầu núi,
Mượn đám mây trôi, dạo phím đàn. 

Tết người Phật tử vui muôn nơi
Tam Bảo lộc ban sự thảnh thơi
Hỷ Xả Từ Bi làm mứt kẹo
Yêu đời đẹp Đạo bó hoa tươi
Sáng câu niệm Phật chiều Thần chú
Tối lại hành trì, não phiền trôi
Xuân tới Đạo tràng chia chiếc bánh
Kim cương bốn đũa gắp ta mời. 

CUNG kính chúc nhau từ tấm lòng
CHÚC mừng năm mới, thoả ước mong
TÂN niên sự sự đều như ý
XUÂN mới nhà nhà được ấm nồng
VẠN nẻo muộn phiền đều xả hết
SỰ cùng với lý rõ sắc không
NHƯ Đào Mai nở ngày Xuân tới
Ý tự tâm thành, vạn sự thông!

Rảnh rỗi Xuân sang: sách với trà
Năm qua nhìn lại: vạn đường xa
Cũ-mới, xong-chưa mà như đã...
Mọi sự đúng là: tại Tâm ta. 

Cũ mới cuối năm luận đúng sai
Tu còn giải đãi, hành sơ sài
Qua ba mươi tết là năm mới
Giáp Ngọ đến rồi: phi nước đại!

... Đường còn dài... Tinh tiến, Quả nay mai!

CHÚC mới đến thì cũ sẽ thay
XUÂN về vui đạo gặp duyên may
GIÁP niên đón cảnh nhà tươi đẹp
NGỌ hoả trí thiền hết cái say
AN ổn thế gian cùng tiến đến
LẠC, Định, Tĩnh rồi thấy Xuân ngay. 

Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2014

Quy Y Tam Bảo

 
 
Mưỡu:
Đời người một thoáng chiêm bao
Sống không tu chỉnh khác nào sống mê.
Hát nói:
Quy y Tam Bảo,
Quay về bản tâm thanh tịnh xưa nay.
Kìa Bát-phong gió thổi mây bay,
Nhà Vô-Sự hỏi là đây có phải?
Sáng rung chuông nhất tâm hối cải,
Chiều gõ mõ niệm Phật tụng kinh.
Thi thoảng trong tâm có hiện vọng tình,
Kẻ mới tu giật mình giấc mộng huyễn.
Này tứ cú kệ, này Kinh vạn quyển,
Này lý thời không, này trí Bát Nhã.
Thoáng suy sao tỏ Phật - Ma,
Bởi Lý Sự nó trùng trùng duyên khởi.
Vạn pháp duy tâm lý đó mà tới,
Vạn hạnh thật tính sự đó mà đi.
Tâm phân biệt ấy có Vô-Vi,
Hay để cảnh hiện tiền đưa xa mãi?
Tỉnh thức từ đây không sợ hãi,
Tu pháp chư Phật chẳng có sai.
Càng tinh tiến Đạo-Vị càng cao!
-------------------------------------------------
Chú giải:
"t thoáng chiêm bao
ng mê."
    Đời sống loài người trên dưới một trăm năm, từ khi sinh đến khi chết đi, nhìn lại như một giấc mơ, những cái của mình trước thì nay không còn, những cái tưởng của mình thì bây giờ là của người khác. Cuộc sống thì vui ít khổ đau phiền não thì nhiều. Tâm mải đuổi theo các mong cầu, thân chịu cái đau của bệnh tật...không chịu tỉnh ngộ để thấy vạn vật vô thường, khi có khi không; để đến như cái thân đây coi là của mình nhưng nào phải mình muốn gì nó cũng nghe theo, huống là những vật khác, thân ta muốn nó lành thì nó cứ đau, muốn nó trẻ thì nó cứ già, muốn nó sống thì nó cứ chết. Ôi!, mải mê theo đuổi những vật dục huyễn hư mà không chịu tu chỉnh cái thấy, cái nhìn để cho thân tâm cứ mãi lăn trôi trong sáu nẻo luân hồi chịu biết bao khổ sở, làm cho sống chết lặp đi lặp lại, như vậy chẳng phải mê là gì!?
"o,
a nay."
Chúng sinh vì nhiều đời lăn trôi trong lục đạo từ: địa ngục, ngạ quỷ, súc sinh, atula, người đến cõi thiên ( 33 tầng trời). Về đời lâu xa về trước có người thấy chán cảnh sống chết đó mà tự soi xét tự tâm với cảnh hiện tiền mà phát hiện ra lý nhân duyên, thành các vị Độc Giác Phật. Cũng thời đó tà ma ngoại đạo xuất hiện nhiều, chúng cho chúng sinh ăn bánh vẽ, mê hoặc làm cho chúng sinh lại thêm chìm đắm. Trong số các vị Độc Giác có một vị phát lòng thương cảm chúng sinh mà chịu khó lăn trôi vào các cõi luân hồi để cứu vớt, chỉ bày cách sống cho chúng sinh thoát khỏi khổ não, lâu đời nhiều kiếp vì hành hạnh từ bi đó mà công đức được viên mãn, vị Độc Giác đó đã thấy rõ được thật tính thật tướng của các pháp và đắc toàn thể toàn dụng của pháp giới tính thị hiện thành Đức Phật Uy Âm Vương. Nhờ công đức đó mà tới nay có vô lượng vô biên chư Phật. Chúng ta nhờ ơn đức dạy bảo của chư Phật mà thấy rõ được cái khổ luân hồi, nhận rõ được nguyên nhân của khổ đau, rồi tu chỉnh theo các pháp môn của chư Phật chỉ bày để dần chứng quả là diệt được cái chấp Ngã tướng và chấp Pháp tướng, từng bước thể nhập với pháp giới tính của vạn pháp như Phật. Trong quá trình tu chứng ở các đời vì tập nhân phiền não còn nhiều, để không phải lầm lạc chúng ta phải nương dựa vào các Thầy là các vị đã tu hành trước, những người đã thông suốt ý chỉ của Phật một lòng tinh tiến tu hành để vừa độ mình lại không quản ngại độ người.
    Tam Bảo là Phật, Pháp, Tăng. Quy Y Tam Bảo chính là chúng ta quay về nương dựa Phật, học hỏi giáo pháp của chư Phật, nhờ sự dìu dắt của chư Tăng, Phật, Pháp, Tăng là thể tính thanh tịnh của pháp giới không có nhiễm ô, chúng ta cũng chính là một pháp trong pháp giới cho nên Quy Y Tam Bảo cũng chính là quay về với bản tâm vốn thanh tịnh của chính chúng ta.
"i mây bay,
i?"
    Nói về Bát phong là nói đến tám "ngọn gió" làm cho đời sống của chúng ta thăng trầm, bao gồm bốn điều phúc và bốn điều suy: Thịnh và Suy, Hủy và dự, Xung và Cơ, Khổ và Lạc. Hay là: lợi suy, vui khổ, vinh nhục, khen chê.
1. i:y...
2. Suy:u bi, chán nãn.
3. Vui:gian.
4. :thù.
5. Vinh:cao
6. c:c, uy tín.
7. Khen:i khác
8. Chê:i khác.
    Tám ngọn gió của thế gian nếu tâm chúng ta chấp trước cái ngã tướng ( chấp thân của ta) và cái pháp tướng ( chấp cảnh giới ta sống là có thật) nó sẽ thổi hết công đức tích tụ được bấy lâu nay. Lấy một ví dụ: Thời xưa, bên Trung Quốc có vị thiền sư Phật Ấn và Ngài văn hào Tô Đông Pha là đôi bạn thân. Một lần đi qua nhà bạn, thiền sư Phật Ấn thấy dán trước nhà dòng chữ " Bát phong suy bất động". Vì biết người bạn mình chưa thực chứng nên Thiền Sư bèn chổng mông đánh rắm vào tờ giấy treo đó. Gia nhân ngài Tô Đông Pha hôm sau về mách lại sự việc với chủ nhân, quá tức giận vì bị sỉ nhục ngài Tô Đông Pha bèn chèo thuyền qua bên kia sông đến ngôi chùa của ngài Phật Ấn lên tiếng trách cứ rất nặng. Thiền Sư bèn mở cửa ra mỉm cười và nói: Tôi tưởng ngài đã không còn bị tám ngọn gió lớn lay động, sao bây giờ mới có một ngọn gió nhỏ mà đã thổi ngài bay từ bên kia sông sang tới bên này là thế nào". Ngài Tô Đông Pha thẹn quá mà tiu nghỉu rút lui. Như vậy khi Tâm chúng ta thường chính niệm sẽ không bị tám ngọn gió lay động, mọi sự dù đến dù đi cũng không mảy may, sống như vậy thì chẳng có điều gì làm khó được, chẳng có gì làm hại được. Đời sống ung dung tự tại như thế gọi là người vô sự và ở đâu làm gì cũng là nhà Vô sự.
    Cốt lõi của việc tu hành ở chỗ luôn Chính Niệm, vậy thế nào mới là chính niệm?; Chính niệm có hai nghĩa:
- Ức niệm và quán niệm. Ức niệm là ở chỗ nhớ nghĩ công ơn của cha mẹ, thầy cô, bạn hữu mà mong trả, nhớ nghĩa lý trong kinh, nhớ đức hạnh của Phật, thì gọi là chính. Trong kinh có câu: " Nhớ Phật, Niệm Phật, đời này hoặc đời sau, quyết chắc đặng thấy Phật". Người tu theo đọa Phật phải giữ lòng nhớ cho chân chính, nhất là phải nhớ Phật, niệm Phật thì mới khỏi sai đường lạc nẻo.
- Quán niệm, nghĩa là tưởng tượng chúng sinh nghèo hèn đói khó, nguy hiểm tai ương, mà sinh lòng thương xót cứu giúp; lại tưởng tượng vạn vật thế gian tán tụ vô thường, vì nhân duyên mà sinh mà diệt, không có tính chất nhất định mà vứt bỏ những sự mê lầm, thì đều gọi là chính quán niệm.
"i,ng kinh.
Thi thoảng trong tâm có hiện vọng tình,
Kẻ mới tu giật mình giấc mộng huyễn."
Chúng ta sau khi đã Quy Y Phật pháp, đã nhận thấy chân tính của sự vật hiện tượng là " vô thường, khổ, không, vô ngã" thì thuận theo sự lý mà trong gia đình thị hiện làm người con thảo, ngoài xã hội thị hiện làm người lương thiện, tâm không còn bị cảnh vật dục lôi kéo. để được như vậy chúng ta cần phải nhận thức rõ về "tứ pháp ấn":
1- Vô thường: vạn vật trong vũ trụ đều được cấu tạo từ thất đại gồm địa, thủy, hỏa, phong, không, kiến và thức. Trong đó, năm đại đầu là phần thân, hai đại kiến và thức thuộc về phần tâm.