Hiển thị các bài đăng có nhãn PHONG THỦY. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn PHONG THỦY. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024

ĐỊA LÝ HỒ THỦY TIÊN THÀNH PHỐ HUẾ



NĂM RỒNG BÀN VỀ RỒNG...ở Huế

Huế có một con rồng được xây dựng trên hồ Thủy tiên trong đồi Thiên an. Hiện nay đang là "linh vật" được giới trẻ chụp hình bắt trend Giáp Thìn. Năm 2016 tờ báo CNN của Mỹ đã giới thiệu về một địa điểm ma mị vô cùng đặc sắc mang tên Hồ Thủy Tiên. "sau bài báo này, khu du lịch bị bỏ hoang này lập tức thu hút khách nước ngoài đến check in vẻ đẹp đầy ma quái, rùng rợn của công viên".
Cảnh quan Hồ Thủy Tiên trước khi xây dựng vốn là một khung cảnh tự nhiên tuyệt đẹp bao bọc, với hồ nước trong vắt chưa khi nào bị cạn, nằm trên đồi Thiên An - nơi được mệnh danh là " Đà Lạt xứ Huế".
Bài viết này nhằm trả lời câu hỏi của một số người bạn về việc tai sao sau khi xây dựng con rồng trên hồ Thủy Tiên thì hồ thường xuyên bị cạn nước?.
Giới hạn ở bài nghiên cứu này chúng tôi căn cứ vào cách xem Thiên văn, Địa lý và Nhân sự là những vấn đề với các khái niệm có thể cùng nhau chấp nhận và thấu hiểu, gọi là dựa trên khoa học thường nghiệm.
Xét về thiên thời năm xây dựng công viên hồ Thủy Tiên từ Canh Thìn đến năm Tân Tỵ (2000-2001) ứng với câu sấm ký của cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm:
“ Rồng vào bể cạn có ai hay
Rắn mới hai đầu khó chịu thay…”
“Rồng” ứng với xây dựng con rồng bê tông, “bể cạn” ứng với năm Canh Thìn thuộc kim khí ứng với đầm cạn nước.
“Rắn mới” ứng với năm can chi Tân Tỵ (năm dương lịch 2001, Tân là mới, Tỵ là rắn).
Bài kệ như là dự đoán sự tướng nước trong hồ khô cạn và việc kinh doanh hoang tàn của dự án.
Tuy nhiên Thiên thời vốn xoay vần, nên hết xấu sẽ đến tốt, tại sao qua cái vận khó (22 năm kể từ ngày khởi công) mà vẫn chưa thông, chúng ta cần xét thêm vấn đề ở Địa lý.
Thông qua bình đồ tính toán (hình kèm theo bài), Hồ Thủy Tiên có hướng (trục mạch chảy) từ Tây Bắc xuống Đông Nam là cách vượng thủy khí, thủy sinh mộc nên xung quanh hồ xưa nay cây cối rất tươi xanh. Tại hai đầu trục là vị trí đắc địa và vượng địa của hồ. Không hiểu sao lại xây dựng con rồng ở vị trí long mạch (vượng địa) hướng Đông nam. Và ở vị trí Tây Bắc (đắc địa) thuộc Thủy khí lại xây dựng công trình cao có khối tích Thổ khí tạo ra sự xung đột về mặt Địa lý.
Vạn vật vốn vô tình, chỉ có tâm người hữu ý, ngoài Thiên thời và Địa lợi yếu tố Nhân hòa rất quan trọng để cho cấu trúc các công việc hay dự án được hoàn chỉnh và phát triển bền vững. Nhân hòa lại ở biệt nghiệp riêng của chủ sở hữu. Phần này do chưa có thông tin nên chưa tính rõ, nhưng thông qua kết quả kinh doanh hiện nay thì cũng phần nào dự đoán được Nhân hòa hiện ở trong đại vận kém.
Một số nhận xét theo thiên văn địa lý sơ bộ ở trên tạm để tham khảo và giải đáp, cũng là để trao đổi kiến thức về Địa lý với mọi người.
Mong sao sự thay đổi tới đây của UBND Thừa Thiên Huế về cải tạo dự án sẽ mang lại sắc màu xanh và trong trở lại cho khung cảnh tuyệt đẹp của hồ Thuỷ Tiên.

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2019

PHONG THUỶ VỚI ĐẠO PHẬT

Mạn đàm thêm về Phong Thủy với Đạo Phật: 
----------------
Thế gian và xuất thế gian đều có phong thủy. Ở thế gian Phong Thủy là Sở Duyên Duyên, một duyên trong bốn duyên để làm cho cái nhân thiện-hữu-lậu thế gian phát triển dần lên thiện-vô-lậu xuất thế gian. Vì là chính Duyên nên Phong thủy chỉ hỗ trợ cho chúng ta phát huy được tâm chính-thiện để được quả báo thế gian là đủ cả Phúc-Lộc-Thọ. Tổ sư Quách Phát đời nhà Đường là người sáng lập ra bộ môn phong thủy có nói: Tiên tích đức, hậu tầm long. Nghĩa là muốn có được long mạch phong thủy tụ chính khí thì trước tiên hẵng hành thiện để tích tụ cái công Đức. Theo đó những kẻ luôn làm ác thì ban đầu dù có tìm được long Mạch nhưng vì kém phúc Đức khí Mạch đó sẽ tự tán, nói theo chuyên môn phong thủy là khí mạch từ tích-tụ sẽ biến ra cách hãm-hiểm tạo ra cái duyên ( môi trường) xấu kết hợp với cái nhân là cái tâm xấu sẽ thành ra cái quả xấu gặp nhiều tai họa. Đó là nói về phong thủy thế gian. 
Bàn về Phong thủy xuất thế gian là nói về cảnh giới bất khả tư nghì. Đây là cảnh giới được tạo thành từ Chính Nhân là tâm Bồ Đề với chính Duyên là tu hành theo các pháp môn giải thoát của chư Phật, từ chính nhân và chính Duyên đó mà thành tựu chính Quả là viên mãn cõi Tịnh Độ trang nghiêm thanh tịnh của thập phương Chư Phật ở vô lượng Hoa Tạng thế giới. 
Trong Kinh Thủ Lăng Nghiêm Đức Phật có nói với Ngài Trì Địa Bồ Tát: làm các việc công Đức về nhà cửa đất đai cần phải làm với cái tâm tốt đẹp thì mới có được kết quả tốt đẹp. 
Như vậy phong thủy có tốt đẹp hay không chính là phụ thuộc vào bản tâm của chính chúng ta.

Thứ Ba, 9 tháng 10, 2018

Phong thủy trong kinh doanh


Giới thiệu PHONG THỦY TRONG KINH DOANH
I- Phong thủy văn phòng
Trong phong thủy học chính tông, khái niệm hình-khí rất quan trọng, Hình-khí kết hợp với nhận-thức (Tâm) thì thành ra Thể-chất.  Hình-dáng, hình-tướng tốt đẹp đi liền với công năng (là tính chất ) sẽ tạo ra môi trường phong thủy hoàn hảo. Như vậy, khi xem xét xây dựng, thuê mướn tòa nhà, hay sử dụng một phần diện tích để làm văn phòng, chúng ta cần chú ý các vấn đề sau:
1. Không gian văn phòng vuông vắn là đẹp nhất, dù là toàn bộ công ty hay cho từng riêng các phòng ban. Hình vuông là không gian để không khí lưu thông tuần hoàn thuận lợi nhất, từ đó tác động tốt đến sức khỏe con người. Việc hoạt động kinh doanh trong không gian có hình dáng kỳ quái hoặc thiếu góc sẽ làm cho trường năng lượng phân bô không cân bằng, như vậy sẽ ảnh hưởng đến thể chất và tinh thần của nhân viên trong công ty. Không gian cần vuông vắn để đạt được "hình-khí" tốt, bởi vì hình vuông thuộc Thổ, tượng trưng cho sự chắc chắn và bền vững, đó là nền tảng tạo ra môi trường thuận lợi cho các chiến lược kinh doanh được thành công.
2. Không gian văn phòng kỵ nhất có hình dáng chữ U, chữ L hoặc chữ G là ý kiến của các nhà phong thủy. Thực ra cái xấu ở đây chính là tầm nhìn và việc bố trí nội thất cho các phòng ban dẫn đến mất nhiều diện tích cho giao thông. Để khắc phục nhược điểm này chúng ta khéo bố trí tường vách ngăn để đón ánh sáng và thông gió tự nhiên hợp lý là được.
3. Phía trước văn phòng cần có không gian thoáng đãng, mục đích là tụ-khí, tụ là tạo ra túi khí trong lành từ môi trường tự nhiên, đủ rộng để đảm bảo cho sự vận động của con người. Diện tích đủ để không tạo ra sự bí bách, ức chế trước cửa ra vào, làm ảnh hưởng đến tâm lý khi làm việc hay thực hiện các giao dịch thương mại dịch vụ.
4. Sảnh đón của toà nhà làm văn phòng hay cửa hàng, đặc biệt phải có mái hiên. Công năng của mái hiên ngoài che mưa che nắng còn có tác dụng dẫn khí lành vào nhà. Nhất thiết mái hiên phải thấp hơn sàn tần trên. Nền mái hiên phải cao hơn đường, tránh luôn tụ nước bẩn tạo ra uế-khí, hãm-khí là những khí xấu cản trở tài-khí đi vào nhà.
5. Vị trí cầu thang bộ và thang máy tối kỵ nằm thẳng với cửa ra vào. Dù là cửa ra vào sảnh hay phòng làm việc. Tốt nhất nên bố trí ở phía bên trái theo hướng người đi vào. Thông thường quán tính của chúng ta là đi từ trái sang phải, việc bố trí như vậy làm cho mọi việc được trật tự, thuận theo tâm-khí để dẫn phát tài-khí. Tránh việc bố trí thang bộ đi xuống tầng dưới ở vùng đối diện sảnh và cửa. Điều này sẽ làm cho vận khí đi xuống ( phạm vào cách cuộc trong phong thủy:" trước mặt là vực thẳm" )

( Phần sau bàn về tiểu cảnh, cây xanh trong văn phòng làm việc )

Thứ Ba, 16 tháng 2, 2016

Luận đoán về năm 2016























Đầu năm mới Bính Thân, nhớ lại câu sấm ký của cụ Trạng Trình nói về vận cuộc (Thiên Địa Nhân) từ năm Nhâm Thìn đến năm Kỷ Hợi:
“ …Rồng (2012) vào bể cạn có ai hay…
Rắn ( 2013) mới hai-đầu khó chịu thay
Ngựa (2014) nó ra ngoài chuồng bỏ ngỏ
Dê (2015) kia làm quái phải quay đầu
Khỉ (2016) nọ ôm con ngồi khóc mếu
Gà (2017) kia vỗ cánh xào xạc bay
Chó vàng (2017) vẫy đuôi mừng thánh chúa
Lợn kia (2018) ủn ỉn lên chuồng nằm”

Khái niệm sấm ký là các lời văn hay thơ dự đoán tương lai căn cứ vào môn Chu dịch dựa vào tượng của thiên của địa của nhân sự mà tính quẻ kép để rõ tượng rõ cách cuộc và khí ( xu hướng ). Đó là cách dự đoán việc gần. Đối với các sự việc xa đến hàng trăm năm cần phải có sự tu chứng, nắm được then chốt của nhân-quả, nghĩa là biết nguyên nhân mà rõ được kết quả. Cụ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm là Phật tử tại gia nghĩa là tu theo giáo lý của chư Phật có pháp danh là Bạch Vân cư sỹ. Sở học của cụ Trạng Trình để lại có nhiều, phần lớn được phổ biến là hệ thống các bài sấm ký, đời sau thấy chứng nghiệm rất đúng. Có chăng ngài đã nắm bắt được, hiểu rõ được cái thời của Thiên, cái lợi của Địa và cái hòa của Nhân!?
Bàn về Thiên Địa Nhân đúng đắn chính là bàn về các mối quan hệ mang tính Nhân Quả. Nói về nhân quả thì vật chất có nhân quả vật chất, tâm thức có nhân quả của tâm thức. Sự và lý này duyên khởi với nhau như-huyễn tạo ra môi trường hoạt động thiên thì biến, địa thì hoá, nhân thì đổi. Tu Phật không chấp ở sự mà cũng không bỏ sự, đó là lý “ Vô-chấp, Vô-thủ”. Khi rời cái Có-Không, Giống-Khác, Đến-Đi… thì tâm thường tự tại trong mọi hoàn cảnh đối đãi, dù gặp huyễn sự khó khăn gì cũng vượt qua bởi sẵn có tâm Vô-ngại. Để được như vậy phải thường thanh tịnh, tinh tiến học hiểu sâu sắc và sống theo giáo lý Phật để nhận diện sâu sắc về nỗi khổ niềm đau, xác thực được đâu là hạnh phúc chân thật. Thông qua quy trình sự tri-khổ ( nhận diện khổ đau), đoạn-tập ( nguyên nhân tạo ra nỗi khổ niềm đau ), chứng-diệt ( sống với tâm lạc thân an khi không còn nỗi khổ niềm đau ) và tu-đạo ( hành theo 37 Phẩm trợ đạo… ).
 Vạn vật trong vũ trụ từ vật chất ( có hình) đến tâm linh ( vô hình ) đều tuân theo quy luật Thành-Trụ-Hoại-Không. Mỗi mỗi yếu tố duyên khởi lẫn nhau, kết lại gọi là thành, tồn tại một khoảng thời gian là Trụ, biến đổi khi có yếu tố khác can thiệp hay chịu sự thay đổi của các thành phần nội bộ là Hoại, quá trình tan rã làm yếu tốt cho cái mới hay kết nạp thêm yếu tố ngoài để tạo ra Vật mới hay khái niệm mới gọi là Không. Chỉ có người thâm nhập sâu vào lý Nhân Quả và hằng sống trong tỉnh thức sẽ tỏ được cái kết QUẢ khi nắm bắt và nhận diện được nguồn gốc ( NHÂN ) thông qua môi trường ( DUYÊN ).
Phật pháp tại thế gian bất ly thế gian giác”. Nói lên tính tương tức của tiến trình từ pháp thế gian tiến lên pháp xuất thế gian. Trên con đường tu hành từ Tự-lợi ( cho mình ) đến Lợi-tha ( giúp người ), chúng tôi theo pháp Vị-nhân-Tất-Đàn, nhân duyên đầu năm mới 2016 mà đưa khái niệm Tam Tài để mạn đàm về  Thời cuộc ( Thiên Văn) về Môi trường hoạt động ( Địa lý ) và xu thế tư tưởng ( Nhân sự ).
Nói về nhân duyên năm Bính Thân 2016, cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm viết: “…Khỉ nọ ôm con ngồi khóc mếu…”. Để bàn về đại vận quốc gia theo câu sấm này chúng tôi sẽ chia sẻ ở bài viết sau. Nay dựa theo môn khoa học thế gian là Chu Dịch để bàn về Thiên thời địa lợi nhân hoà:
THIÊN VĂN năm Bính Thân theo Nhị thập bát tú thuộc sao Khuê Mộc Lang quẻ Chấn, dương Mộc. Ý là năm nay thiên nhiều về sự thay đổi theo đức của quẻ chấn là sự linh động. Ngũ hành Mộc thuộc văn cách nên cũng là dự báo có nhiều quy định quy chế, chế tài và các văn bản mới được ký kết làm nền tảng cho sự thay đổi dần về mọi mặt. Về mặt thời tiết năm 2016 nắng nhiều đặc biệt là khu vực phía nam theo luật tương sinh Mộc sinh Hoả ( Nam )
ĐỊA LÝ năm Bính Thân thuộc quẻ Khôn, nghĩa là năm nay môi trường hoạt động chung có được sự bình ổn của chữ Thuận. Vùng địa lý để phát triển BĐS thuộc về khu vực phía Bắc, Nam và Đông Bắc…
NHÂN SỰ năm Bính Thân theo ngũ hành là Sơn Hạ Hoả, ngũ hành Can Chi ra quẻ kép Thuỷ Thiên Nhu có tượng là Giếng khô sinh nước. Nghĩa là có nhiều cơ hội mới theo sự biến đổi của thiên thời.
Như vậy theo Thiên Địa Nhân năm Bính Thân 2016 thuận lợi cho người mang ngũ hành thuộc Mộc ( 1972,1973, 1980,1981…) hoặc ngũ hành thuộc mệnh Hoả ( 1978, 1979, 1986,1987…). Cụ thể cho các tuổi theo ngũ hành như sau:
 Những người mệnh Kim là kém nhất, để có được sự tương sinh theo ngũ hành sinh khắc và nắm bắt thời của thiên, lợi của địa cần năng hành hạnh Bố thí để lấy chữ Nhân thuộc Thổ trung hoà giữa Hoả và Kim theo phép “ tham sinh quên khắc”.
Người mệnh Thuỷ năm nay cần linh hoạt trong việc đầu tư ( chi nhiều ) mới có cơ hội tốt, tiêu biểu là hành từ thiện.
Người mệnh Mộc năm nay được vượng khí, cần nâng cao các kỹ năng và nhận thức để đón nhận và nắm bắt cơ hội. Tỉnh táo trong các việc đầu tư về BĐS…
Người mệnh Hoả năm 2016 được đắc địa, có nhiều thời cơ tốt về quan lộc và đất đai nhà cửa.
Người mệnh Thổ năm Bính Thân có ít cơ hội tốt do thiên thời thuộc Mộc khắc thổ. Về mặt địa lý là môi trường hoạt động lại rất thuận lợi. Cụ thể phù hợp với việc đầu tư về Bất động sản. Năng tu Thiền Định theo đạo Phật thì có được chữ Trí Hoả mà hoá giải các bất lợi trong đời sống…
Như vậy năm Bính Thân theo Thiên Địa Nhân đối với dụng sự chúng ta cần năng làm việc thiện tích phúc đức để tương ứng với cách Thiên văn mà được quẻ dương Mộc đầy đủ Phúc - Lộc - Thọ.  Mọi việc thuận theo chính lý là luôn linh động, tinh tiến cố gắng để vượt qua khó khăn ban đầu thì về sau mọi việc đều được tốt đẹp. Đó là cách cục của quẻ kép Sơn Hạ Hoả xét chung cho cả Thiên Địa Nhân của năm Bính Thân 2016.
Tạm kết:
Năm Bính Thân xin chúc các Đạo hữu cùng gia đình Thân Tâm thường An Lạc, mọi sự được Khinh An, sở cầu như ý sở nguyện đồng tâm. Nay theo lời chúc xưa kia của Chư Tổ chúc các Thiện Tri thức Dũng mãnh tinh tiến tu Đạo Vô Thượng, ban đầu tu theo Tam Không (Không, Vô tướng, Vô Tác) đạt được quả vị A LA HÁN tiểu thừa, BÍCH CHI trung thừa sau đó tu theo Tam Luân Thể Không (Không, Vô Tướng, Vô Nguyện) từng bước đạt được quả vị Bồ Tát xây dựng được cõi Tịnh Độ cho riêng mình cho tới khi viên mãn được Thanh Tịnh Pháp Thân quay trở lại giáo hóa chúng sinh.

Thứ Ba, 13 tháng 1, 2015

Chu dịch Thiền luận

Pháp Phật có nhiều, mỗi mỗi pháp môn đều căn cứ theo căn tính của chúng sinh mà thiết lập. Về sự tướng có khác nhưng về Chân lý chỉ có một "vị". Đó là vị giải-thoát, “giải” là làm cho thay đổi nhận thức sai lầm về thực tại của đời sống, “thoát” là rời những ràng buộc làm cho chúng ta mất sự tự do. Kinh Pháp Bảo Đàn nói “ Phật pháp bất ly thế gian giác”, nghĩa là sự giác ngộ của Phật bắt nguồn trên nhận thức của người đời (pháp-thế-gian) hay từ nhận thức thường nghiệm mà thành tựu.
Ở bài viết này chúng tôi căn cứ trên sở học của người xưa về Dịch-học mà luận giải về bản chất của vạn pháp theo góc nhìn của Thiền học. Thiền là phép quán sát sự vật hiện tượng theo thật tướng thật tính, nghĩa là bóc bỏ hết những màng duyên sinh nhằng nhịt những quan niệm sai lầm của nhận thức về thế giới của chúng ta và về tâm thức của chúng ta. Dịch-học chính là bộ môn khoa học thế gian mô tả lại môyj phần các mối quan hệ sinh và diệt của duyên-sinh của thế giới vật chất và thế giới tâm thức. Để hiểu về duyên sinh có nhiều, giới hạn ở bài nghiên cứu này chúng ta bắt đầu dùng dịch học để dự đoán tương lai của chính mình, rồi từ đó phân tích các khái niệm, truy tầm nguyên nhân. Khi đã rõ được tự-tâm của mình rồi thì mọi sự tướng dù ẩn hay hiện, dù đã sinh hay đã diệt...mỗi mỗi đều rõ ràng không còn vướng mắc. Đây cũng chính là sự thấy biết khác nhau giữa phàm phu và thánh nhân vậy.
Chúng ta sinh ra mỗi người đều có ngày tháng năm sinh riêng khác, gồm có số năm sinh, số tháng sinh, số ngày và số giờ sinh nhất định. Vì đã sinh ra vào năm tháng ngày giờ đó rồi nên không thể lại quay vào sinh lại để chọn giờ khác tháng khác được nữa. Cho nên mới nói “Số không đổi được”. Vì điều này mà nhiều người quan niệm sai lầm là Số đã an bài. Sự thật số không đổi chỉ là khái niệm số-học chứ không phải số-mệnh là diễn biến cuộc đời từ khi sinh đến khi tử của mỗi người đã được lập trình sẵn. Nếu như vậy thì chúng ta khác cái máy ở chõ nào!?.

Con người ta sinh ra vào thời điểm nào, tại địa điểm nào trong thế giới bao la rộng lớn này tất phải có nguyên nhân, người khoẻ mạnh, người ốm yếu, người giàu, kẻ nghèo khổ… chắc chắn phải có nguyên do. Đi tìm câu hỏi này đồng nghĩa với việc suy tư về cây lúa. Cây lúa mọc ở nơi khô cằn khác với cây lúa mọc ở nơi phù sa tươi tốt. Lúa cũng tốt hơn khi phát triển ở thời tiết ôn hoà mát mẻ, vào thời điểm khô hạn dù cố gắng chăm bón thì cũng chỉ ra bông bé hạt lép mà thôi. Như vậy cây lúa tuỳ theo điều kiện sinh trưởng mà có kết quả khác nhau. Từ thời điểm gieo mầm cho đến việc bón phân, cần, giống…tập hợp những yếu tố này gọi là Duyên. Duyên chính là điều kiện.

Con người ta cũng vậy, sướng khổ đều có nguyên nhân. Đơn giản như cây lúa mà còn khó suy lường huống hồ con người ta nay đây mai đó, môi trường sống sai khác, quan hệ phức tạp, tính cách thay đổi hằng ngày, chịu ảnh hưởng của khí hậu thổ nhưỡng văn hoá vùng miền...Như người miền trung thì có khi hiền hoà ( chữ Thuận là thật đức của quẻ Khôn theo Dịch học), có khi dữ tợn ( chữ Nghịch), hầu hết các cuộc khởi nghĩa cách mạng đều bắt đầu xuất phát từ miền trung. Người miền Nam theo vị trí địa lý của dịch học thuộc quẻ Ly hoả, tính cách có người rất huy hoàng tráng lệ là được cách thật đức, có kẻ tâm hồn lại trống rỗng là cách hư đức của quẻ Ly…Con người sống trong mối qua hệ nhiều tầng nhiều lớp như vậy để dự đoán một sự vật hiện tượng liên quan đến con người quả thật không phải là điều đơn giản.

Giới hạn quyển sách này chúng tôi muốn giới thiệu một góc nhìn về bản chất Dịch học dưới phương pháp Nhân Minh luận của nhà Phật.

Nói về pháp Nhân Minh của nhà Phật chính là việc thông qua kết quả (lập Tông) để xét lại mối quan hệ của Nhân và Duyên. Như việc thành tựu Đại pháp thân là do nhân tu Bồ đề tâm, hay quả Nhất thiết trí do nhân tu Bát Nhã…

Nhân tu

              Từ việc theo dõi sự phát triển trong suốt vòng đời của cây lúa qua nhiều ngàn năm con người đã rút ra được kinh nghiệm và dự đoán được kết quả phát triển, mỗi khi có sự thay đổi của một trong các yếu tố cấu thành hay nói cách khác là thay đổi duyên. Phương pháp dự đoán về con người cũng dựa trên kinh nghiệm như vậy. Do con người được cấu thành bởi nhiều thành phần phức tạp. Tổng hoà gồm phần thân và phần tâm. Để đoán biết được sự phát triển theo từng giai đoạn sinh lão bệnh tử cho đến việc thành bại của công việc trong cuộc sống theo phân tích trên thì chúng ta phải tìm hiểu được các nhân và duyên của con người. Dựa vào đó mà luận đoán được kết quả. Người nào nắm chắc được cấu trúc phát triển và các thay đổi của duyên thì sẽ dự đoán chính xác.

Đời người trăm năm, chẳng mấy ai có thể đủ thời gian để học hết kinh nghiệm của thế giới vô cùng này ấy vậy mà xưa nay có nhiều vị Tổ sư để lại các bài sấm ký dự đoán tương lai cho suốt hàng ngàn năm sau rất đúng.

Kinh Phật thuyết có rất nhiều điều mà đức Phật đã dự đoán trước về tương lai. Trong kinh Đại Bát Niết Bàn, Phật dạy, về sau này, sau khi ta nhập diệt, chúng sinh ở vào thời mạt pháp làm ra nhiều sự huyễn hư tạo ra lắm bệnh quái dị, tâm tham sân si nổi lên đánh giết nhau, đến cực vi cũng làm hại được chúng sinh.” Cực-vi mà đức Phật nói đó chính là bom nguyên tử ngày nay vậy.

Gần hơn, cách đây khoảng 1000 năm có Tổ sư Quý An để lại bài sấm ký như sau:

“ Thụ căn diểu diểu
Biểu Mộc thanh thanh
Đào hoa mộc lạc
Thập bát tử thành
Đông A nhập điện
Dị Mộc tái sinh
Đoài cung ẩn tinh
Lục bát niên gian
Thiên hạ thái bình.”

Đây là bài sấm ký nói đến kết quả và thứ tự của các triều đại từ thời nhà Đinh đến nhà Tiền Lê, Nhà Trần, nhà Hậu Lê…dự đoán tới năm 2018 của nước Đại Việt.

Hay như bài sấm của Bạch Vân Cư sỹ Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm:

“ Ta tai thiên hạ nhược bềnh bồng
Nam Bắc kỷ hà nhược lộ thông
Hồ ẩn trung sơn Mao tận bạch
Kình dương hải ngoại huyết lưu hồng
Kê minh Thỏ ngọc thiên khuynh Bắc
Ngưu xuất lam điền Nhật chính đông
Nhược đãi ưng lai sư tử thướng
Thế gian cộng hưởng thái bình phong”

Bài sấm ký của cụ Trạng Trình dự đoán về vận cục của nước Đại Việt theo hai câu cuối bài sấm của Tổ sư Quý An.

Hiện nay chúng ta đã chứng minh và trải nghiệm được các bài sấm xưa là đúng với diễn biến thực tế. Trên thế giới có nhiều nhà tiên tri cũng có khả năng dự đoán tương lai rất chính xác. Vậy câu hỏi đặt ra: tại sao họ lại có thể đoán biết được kết quả tương lai!?

Quay trở lại việc trồng lúa thì chúng ta biết được sẽ có hạt lúa chắc hay lúa tép bởi ta nắm bắt và biết được các yếu tố sẽ tác động lên quá trình phát triển của cây lúa. Cũng như vậy, đức Phật cho đến các vị Tổ sư và nhà tiên tri đã nắm bắt được các điều kiện và diễn biến của một sự vật và hiện tượng rồi từ đó rút ra được quy luật phát triển. Căn cứ vào quy luật đó mà dự đoán về người về sự vật khác nhau tương ứng.

Dự đoán một sự vật hiện tượng xuất hiện và diễn biết trong một quãng thời gian dù là về quá khứ hay tới tương lai chính là việc nắm bắt được sự tác động của nhiều yếu tố ảnh hưởng lẫn nhau nhiều tầng nhiều lớp như vậy. Nhà Phật đã rút ra được quy luật bản nhiên của sự vật hiện tượng gọi là luật Nhân Quả.

Theo đó mới thấy, ai nắm được then chốt của nhân quả thì có thể thay được tương lai đổi được hiện tại.

Nhiều người rất ngạc nhiên và khó hiểu vì khi đọc ngày tháng năm sinh của mình thì có người sẽ nói ra được tổng quan cuộc đời của họ. Phép xem ngày tháng năm và giờ sinh ( tứ trụ) để dự đoán như vậy có nhiều. Cụ thể phép an sao của ngừoi Ấn độ do Ngài Thiện Vô Uý Đường Tam Tạng truyền vào Trung Quốc là sử dụng mười hai sao an liên tiến trên mười hai địa chi theo năm tháng ngày giờ từ sao Thiên Quý tại cung Tý đến Thiên Thọ tại cung Hợi rồi căn cứ vào ý nghĩa các sao tại các cung an mà luận đoán. Ngoài ra còn các pháp dự đoán khác dựa vào nền tảng âm dương sinh tứ tượng, tứ tượng sinh bát quái, bát quái kết hợp thành 64 quẻ kép rồi căn cứ theo ngũ hành tương sinh tương khắc của các hào với ngũ hành của người mà đoán biết về quá khứ và tương lai. Pháp môn này dựa trên nền tảng của Chu Dịch, về cơ bản khá chính xác…

Các phép dự đoán tương lai kể trên chính là việc căn cứ vào kinh nghiệm nhiều đời của nhiều người, từ đó rút ra được các quy khác nhau như luật âm dương, ngũ hành…

Xét thế mới biết tất cả các pháp môn cho đến diễn biến của mọi sự vật hiện tượng đều tuân theo quy luật Nhân Quả đều dựa trên nguyên Nhân kết hợp với điều kiện là Duyên mà trổ Quả tương ứng.

Chúng ta đang trên đường tìm hiểu và suy ngẫm các phương pháp để dự đoán sự việc thì điều cốt yếu là phải thông tỏ được Nhân Quả.

Nói về Nhân Quả thì có nhân hiện tại sinh quả hiện tại, có nhân quá khứ sinh quả hiện tại. Nhân làm quả rồi quả lại làm nhân bồi đắp tầng tầng lớp lớp như vậy thật là thiên biến vạn hoá không khi nào ngừng nghỉ. Các sách viết về Chu Dịch trong Hệ từ nói: “Dịch chi vi thư dã, bất khả viễn, vi đạo dã lũ thiên, biến động bất cư, chu lưu lục hư, thượng hạ vô thường, cương nhu tương dịch; bất khả vi điển yếu, duy biến sở thích.” ( Sách dịch không thể xa lìa được; đạo Dịch luôn dời đổi, biến động chứ không ở yên một chỗ, trôi chảy bao quanh khắp cả sáu cõi, đi lên đi xuống không theo quy luật nhất định nào, cương nhu thay đổi nhau, không thể lấy nó làm chuẩn mực cố định; mà chỉ thích hợp với sự biến hoá thay đổi). Trích hệ từ này mới hay Tông chỉ của Dịch cũng chính là nói lên một phần của luật nhân quả. Sự biến đổi mà Dịch nói đến chính là sự tác động của nhân quả tương tục từ ngày đến đêm… từ thời này sang thời khác của các sự vật hiện tượng khác nhau.

Xét thêm về phong thái “ ngã tắc thị ư dĩ, vô khả vô bất khả” của cụ Khổng Tử cũng như vậy. Ý câu này nói là điều gì cũng không thể và điều gì cũng có thể. Nghĩa của không-thể là xét đến khía cạnh nắm bắt được then chốn của nhân quả, nghĩa của có-thể là nương theo nhân quả mà xét biết được sự việc vậy.

Tổ sư đời thứ sáu của Thiền Tông Trung Hoa là Lục Tổ Huệ Năng là một người không biết chữ, sau một lần gánh củi đi bán, được nghe người tụng kinh Kim Cương đến câu “ Ưng vô sở trụ, nhi sinh kỳ tâm” (thì hoát nhiên đại ngộ. Ngài ngộ cái gì đây?. Nói về sở ngộ trong nhà Phật thì vô cùng nhưng tựu chung cũng là nắm bắt được bản chất của vạn pháp nghĩa là nắm được then chốt của nhân quả trùng trùng. Triệt ngộ là thời điểm mà hành giả tu Phật trực nhận được thực tướng của mọi sự vật hiện tượng, nắm bắt được quy luật biến hiện của tâm của vật chính là nhập một với pháp giới tính trùng trùng duyên khởi. Nghĩa là nắm bắt được các nhân và duyên tác động qua lại nhiều tầng nhiều lớp như thế nào…Kinh Phật có nói: trong một trận mưa chư Phật có thể biết được có bao nhiêu hạt mưa là ở khả năng thông tỏ được Nhân Duyên Quả.

Chúng ta trở lại phân tích các khía cạnh và vấn đề của việc dự đoán tương lai của Kinh Dịch theo kiến giải của Thiền. Thiền ở đây là sự quán chiếu soi xét đúng với sự thực.

Như trên đã nói để đoán biết được kết quả tương lai của con người chúng ta phải hiểu rõ được sự phát triển và các ảnh hưởng đến cá nhân đó. Con người có phần thân và phần tâm. Phần thân được cấu tạo bởi tứ đại là địa thuỷ hoả phong. Địa là phần vật chất như xương thịt nội tạng, thuỷ là phần máu mủ, hoả là phần hơi ấm, phong là phần khí trong người. Phần Tâm mà người đời gọi là phần hồn, nhà Phật gọi là Thần thức gồm Kiến đại và Thức đại.

Kiến đại là phần thấy biết của sáu căn với sáu trần, phần này chính là thói quen được huân tập nhiều đời kiếp, cũng là căn cứ giải thích cho khái niệm năng-khiếu khác nhau của người đời. Như có người sinh ra đã sáng tác được âm nhạc, lại có kẻ sinh ra đã có năng khiếu về hội hoạ, về thể thao, về khoa học khác nhau…

Thức đại chính là sự lưu giữ các phân biệt, hay nói đủ là Tàng thức, nơi tàng trữ các chủng tử của chư pháp. Chủng tử là hạt giống của thiện nghiệp và ác nghiệp của mỗi người. Thức-đại này làm căn bản cho các căn duyên với các trần mà hoá hiện ra thế giới tương ứng
...còn tiếp...

Thứ Tư, 12 tháng 6, 2013

CHÂN LONG CHÍNH MẠCH



Khu đô thị mới Green City: chân long chính mạch
( Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng)

           
Địa Linh Hà Tĩnh đạt được ở vẻ hài hòa của núi non, sông nước tạo nên bản sắc phong thủy hữu vận lai niên. Vị trí đất quy hoạch khu đô thị Green City tại Huyện Cẩm Xuyên, nơi án ngữ nút giao thông cửa ngõ phía Nam Thành phố Hà Tĩnh chính là nơi vượng khí hội tụ nhiều nhất. Sách “Sơn thủy trung can tập” viết: “Núi hướng về không bằng có dòng nước hướng về, dòng nước hướng về không bằng có dòng nước vây quanh, dòng nước vây quanh không bằng có dòng nước tụ. Dòng nước tụ thì long hội, long hội thì đất lớn”. Nước trong phong thủy hiện đại chính là hệ thống giao thông với điểm tụ khí tại nút giao thông vòng xuyến nơi đây. Vậy nên khéo quy hoạch khu đô thị mới Green City sẽ tạo thành vùng đất hiệp lộ như ý nhất theo phong thủy chính là vùng đất này.
            Vùng đất xây dựng Green City được các nhà phong thủy gọi là chân long, nơi hội tụ sinh khí dồi dào của Tỉnh Hà Tĩnh. Hệ thống giao thông với Quốc Lộ 1A và đường tránh trước khi vào và qua thành phố đã uốn lượn theo vòng xuyến rất đẹp, tạo thành nơi tụ khí và ôm lấy các mảnh đất của Green City, Hành Lộ thế này gọi là đại cát, rất tốt đẹp cho cơ nghiệp và vinh hiển cho công danh. Sau khi uốn khúc giao nhau tại vòng xuyến, các đại lộ mở ra không gian để tiến vào thành phố và các khu kinh tế trọng điểm của Tỉnh. Giáp ranh với Green City là Trường Đại Học Hà Tĩnh với khoảng không gian rộng lớn 120 ha c là Minh Đường chính là một trong tứ thần sa theo lý thuyết phong thủy, là điều kiện để tạo ra vượng khí cho vùng đất này trù phú hơn. Khu đô thị mới Green City được sinh ra để ưu ái lĩnh nhận trọn vẹn tất cả sinh khí hưng vượng của vùng đất này.
            Ngày xưa, những nơi địa thế đẹp như vậy được dùng làm nơi xây cất thành trì, dinh thự của Vua Quan. Sách Thủy Long Kinh chép: “Cần lộ quẩn quanh, ôm ba mặt, hình dáng giống như kim thành, đến đi có tình, khí thế lớn, có thể chọn làm nơi ở của đế vương”. Những triều đại và phủ thành đều được đặt trong những nơi đại cát về phong thủy, thế nên, lịch sử tồn tại đều trên dưới 1000 năm, hưng thịnh lưu truyền đến cả các đời hậu thế.
            Cần nói thêm là dáng đất của Green City với hình chữ Cửu là nơi nối kết sinh khí Nam Bắc tụ tại vị trí trung tâm của khu đất, tạo ra hình dáng cát nhất bền vững nhất trong thủy pháp. Sách xưa viết: “Làm quan thanh quý, thường là vì dòng nước vây quanh Thanh Long; được phúc dài lâu, nhất định là dòng nước quẩn Huyền Vũ”. Trục Quốc Lộ 1A đem lại cho Hà Tĩnh và các Tỉnh mà nó đi qua sự phồn thịnh, hưng túc hiếm có. Nhưng để hưởng được vượng khí lưu niên của dòng sinh khí này, không đâu có thể hơn được khu vực xây dựng đô thị Green City – nơi chính mạch của dòng thủy đại cát, đem lại phồn thịnh, phú quý, sung túc và an lạc đời đời cho cư dân trong vùng.
            Thế đất Green City là thế đất đẹp theo phong thủy. Vùng đất xây dựng đô thị quanh nút giao thông cầu vượt  rất đắc địa để cư dân có thể lạc nghiệp an cư bởi thế đất lớn sẽ đem lại phúc lộc dồi dào, cơ nghiệp thịnh đạt, và cát lợi do sinh khí từ các Đại Lộ mang đến hứa hẹn nhiều thành đạt trong công danh và cử nghiệp cho con cháu. Tóm lại, gia thế hưng thịnh, lộc tồn bền lâu, an lành phước thọ… có lẽ là lời chúc phúc trọn vẹn mà phong thủy dành tặng cho con người nơi đây.

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

Phong Thủy năm 2013 (Quý Tỵ)

LUẬN THIÊN ĐỊA NHÂN NĂM QUÝ TỴ


    

Năm Quý Tỵ xin chúc các Đạo hữu cùng gia đình Thân Tâm thường An Lạc, mọi sự được Khinh An, sở cầu như ý sở nguyện đồng tâm. Nay theo lời chúc xưa kia của Chư Tổ chúc các Thiện Tri thức Dũng mãnh tinh tiến tu Đạo Vô Thượng, ban đầu tu theo Tam Không (Không, Vô tướng, Vô Tác) đạt được quả vị A LA HÁN tiểu thừa, BÍCH CHI trung thừa sau đó tu theo Tam Luân Thể Không (Không, Vô Tướng, Vô Nguyện) từng bước đạt được quả vị Bồ Tát xây dựng được cõi Tịnh Độ cho riêng mình cho tới khi viên mãn được Thanh Tịnh Pháp Thân quay trở lại giáo hóa chúng sinh.

            Trong các sở học thì có Phép Thế Gian và Xuất Thế Gian. Đầu năm mới Quý Tỵ Quảng Kiến rảnh rang dùng chút sở học nhỏ nhoi của mình phân tích về Thiên Địa Nhân (Thiên Văn, Địa Lý và Nhân sự) chia sẻ với bè bạn để cho vạn sự trong năm được hanh thông, muốn thế thời ta phải Khế Thời, Khế Cơ Khế Vị, nói theo phép thế gian là thuận Thiên - Địa - Nhân.
Về Ngũ hành năm Quý Tỵ thuộc hành Thủy (ngũ hành chi tiết gọi là: Trường Lưu Thủy). Hiểu về Trường Lưu Thủy như sau: Dòng nước chảy liên tục, chuyển động không ngừng theo năm tháng không ngừng nghỉ. Dòng nước này vượt qua ghềnh, thác của rừng núi, trải qua hàng vạn dặm trên các châu thổ, khi thì róc rách êm đềm, khi thì gầm thét ào ào như bão tố. Loại Thủy này luôn chảy theo dòng cố định nên để lại hai bên bờ dòng chảy những miền đất đai phì nhiêu làm cho Bình Địa Mộc là các loại cây phát triển phục vụ cho đời sống của con người và vạn vật. Thủy này cần có Đại Dịch Thổ (đất lớn) rắn chắc để cho Thủy tạo được hình dáng uốn lượn và có thêm uy phong. Ngoài ra cũng cần có Kim hỗ trợ, sàng lọc, để cho Thủy càng thêm tinh khiết
1                     Thiên Văn năm Quý Tỵ: Chữ Quý biến theo luật Thiên văn, chiếu theo Nhị Thập Bát Tú chiếu ứng với sao Nguy Nguyệt Yến thuộc quẻ Khảm dương Thủy. Chữ Tỵ thuộc quẻ Ly Hỏa. Ta có quẻ Thủy Hỏa Ký Tế. Lại có khi biến tra quẻ Thuần Khảm ( bởi quẻ hạ Tỵ có lúc là Ly Hỏa có lúc là Khảm Thủy). Xét về thiên văn có nghĩa là năm Quý Tỵ dễ có lũ lụt mưa gió lớn xảy ra.
Luận chung cho dụng sự thiên văn năm Quý Tỵ được khí Diên Niên có nghĩa là với một số người hành thiện sẽ được đầy đủ Phúc Lộc Thọ. Do tương ứng với hạnh nguyện của chư Thiên hộ pháp nên mọi việc thiện đều được hanh thông.
                  Nhân sự năm Quý Tỵ: Chữ Quý là quẻ Thủy, Chữ Tỵ ra quẻ Ly. Ta có quẻ Thủy Hỏa Ký Tế được sự đầy đủ sung túc nếu chúng ta năng làm việc thuận với chính khí của thiên địa.
                Địa Lý năm Quý Tỵ: Chữ Quý ra quẻ Tốn, Chữ Tỵ ra quẻ Tốn. Ta có quẻ Thuần Tốn. Quẻ kép có khí cực âm sinh khí dương có nghĩa là nếu có sự cố gắng thì dù việc gì ban đầu khó khăn nhưng sau đều thành công tốt đẹp. Lại có đức là sự hòa nhập khi cùng làm việc tốt đẹp. Nếu làm việc trái với đạo lý thì sẽ bị cách ly tán về tài lộc, như tham nhũng thì dễ mất chức, kinh doanh lừa lọc dễ bị tù tội...
           Xét chung về công việc lớn ( Đại Sự như kinh tế nước nhà, phe phái, các đầu tư lớn,...) trong năm ta có quẻ Hỏa Phong Đỉnh có nghĩa là có sự giằng co về nhiều mặt. Xét riêng về việc cụ thể thì năm nay phù hợp với nghề Quảng Cáo (Mộc), Điện máy (Kim), Thương mại (Thủy) là các công việc hành Kim như thiết bị, Hành mộc như gỗ, Hành Thủy như Kinh doanh các mặt hàng thiết yếu về giải khát…

Như vậy năm Quý Tỵ theo Thiên Địa Nhân đối với dụng sự chúng ta cần năng làm việc thiện tích phúc đức để tương ứng với cách Thiên văn mà được quẻ Thủy Hỏa Ký tế đầy đủ Phúc - Lộc - Thọ.  Mọi việc thuận theo chính lý là luôn tinh tiến cố gắng để vượt qua khó khăn ban đầu thì về sau mọi việc đều được tốt đẹp. Đó là cách cục của quẻ kép Thuần Tốn xét chung cho cả Thiên Địa Nhân của năm Quý Tỵ 2013.