Hậu học Quảng Kiến
(Tri Kiến lập Kiến tức Vô Minh bản. Tri kiến Vô Kiến tức thị Niết Bàn)
Thứ Tư, 20 tháng 3, 2024
ĐỊA LÝ HỒ THỦY TIÊN THÀNH PHỐ HUẾ
Thứ Hai, 12 tháng 2, 2024
THỎ NGỘ THANH LONG 2024
“Như thị ngã văn
Chúng sinh đa nạn
Nhị thập nhật minh
Thỏ ngộ Thanh long
Kê khuyển ngộ xà
Địa tạng bồ tát
Tróc nã chư ma
Mười phương tôn phục
Tứ phương quy gia. “
Đầu năm luận giải bài kệ sấm ký của Ngài Tuệ Trung Thượng sỹ, là thầy của Ngài sơ tổ Trúc Lâm (vua Trần Nhân Tông).
Năm 2024 có can chi Giáp Thìn là năm thanh long, ngày đầu năm mùng 1 cũng là ngày Giáp thìn, sự trùng lặp này theo lịch can chi 700 năm mới có một lần. Hiếm nên là quý, quý thì tốt.
Nội dung dự đoán về vận hạn liên quan đến nước ta.
Bài kệ nói đến “ thỏ ngộ thanh long” là ý nói đến từ năm Canh Tý (xưa gọi là Thỏ, sau này theo lịch can chi Tàu đổi thành Tý ) đến năm Giáp Thìn (2020-2023) chúng sinh đa nạn, ứng với khó khăn chung của thế giới về dịch bệnh, khó khăn kinh tế và bất ổn về chính trị. “ Địa tạng bồ tát tróc nã yêu ma” có nghĩa là có nhiều kẻ xấu phạm luật pháp bị bắt xử. Câu “ tứ phương quy gia” là nói đến từ năm 2024 sẽ có nhiều người nhiều tổ chức kinh tế xã hội ở khắp trên thế giới đặc biệt là những người gốc Việt sẽ quay về đầu tư phát triển tại nước Việt Nam.
P/s: bài thơ chúc tết mình sáng tác trong hình, cuối năm thường viết dạng liễn thư pháp để treo trong nhà bên nội ngoại và tặng người hữu duyên.
Thứ Năm, 16 tháng 11, 2023
CON ĐƯỜNG THƯỢNG ĐẠO
Con đường thượng Đạo
Sonam - Quảng Kiến
11. Con
đường thượng Đạo và
Phạm vũ trang nghiêm
Thắng cảnh
đạt
được ở vẻ hài hòa của núi non sông
nước,
tạo nên bản sắc phong thủy hữu vận lai niên. Đinh Long Phạm vũ là một trong các ngôi chùa thuộc dòng
truyền thừa chốn Tổ chùa Hương Hà Nội, vị
trí chùa Đinh Long
án ngữ nút giao không gian sông
núi tại thôn Đồng Văn, xã An phú, huyện Mỹ Đức,
Thủ đô Hà Nội. Cùng
với Hương Tích Tùng lâm và Diên Khánh Già
lam tạo ra một tam giác cân với
khoảng cách địa lý 7 km, hình thành nên cách cục “Vĩnh trấn sơn khê”.
Theo Lịch
sử Phật giáo Việt Nam và Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư,
năm 968 sdl. Sau khi lên ngôi và lập ra nhà nước Đại
Cồ Việt. Đinh Tiên Hoàng cho lập lại con đường dẫn từ Hoa Lư, Ninh Bình đến ….Thăng
Long gọi là con
đường thượng đạo. Khuông Việt quốc sư-tức đại sư Ngô Chân Lưu-
cùng Nam Việt Vương Đinh Liễn trên đường từ Đường Lâm-Sơn Tây xuống Hoa Lư-Ninh
Bình thấy nơi đây (Đồng Văn, xã An Phú, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội) đường này vắng vẻ, cỏ cây rậm rạp phong cảnh hữu tình, núi ôm sông bọc nên quốc sư
đã cho lập chùa lấy tên là Đinh Long Phạm vũ làm nơi phụng Phật. Chữ Đinh là họ hoàng đế, chữ Long ứng với danh hiệu hoàng đế, cũng để
mô
tả dãy núi Hương Tích hùng
vĩ ở bên tả thanh long của chùa.
Ngày nay
vượng khí hội tụ, hội đủ
duyên lành, Thượng tọa Thích Minh Hiền cùng Tăng chúng,
Phật tử trong sơn môn và thiện
tín thập phương phát tâm thiết kế quy hoạch xây
dựng chùa Đinh Long, nhằm thiết lập đạo tràng trang nghiêm thanh tịnh,
tạo nơi quy ngưỡng cho quần chúng nhân dân gần
xa về lễ
Phật,
chiêm bái cảnh chùa, rồi
thuận duyên tu hành theo lời Thầy tổ để hiện tại thân tâm an lạc, vị lai được
thành tựu như ý nguyện.
Nhân duyên nay xưa như vậy,
chùa Đinh Long với vị thế đặc biệt của mình hiện tại được tạo
thành bởi trục chính đạo theo hướng Đinh tọa Quý (hướng Nam) với
điểm nhấn kiến trúc bắt đầu là công trình bảo tháp Liên Hoa cao 52m, kết thúc bởi tòa Đại Hùng bảo điện. Ngôi
Tam
bảo được thiết kế hình chữ công, chồng rường đấu củng, hệ thống mái gỗ trùng thiềm
điệp ốc-trùng trùng điệp điệp với 20 mái hoa đao hiếm có trong thời đại hiện nay.
Tổng thể không gian kiến trúc chùa
được cấu thành bởi các hạng mục theo quy
chuẩn của thất đường Già lam, hướng Ly và hướng Đoài được bao bọc bởi các đầm sen, hướng Chấn và Khảm
là trục đường vua Đinh uốn lượn theo dòng sông Thanh Hà. Tổng thể mặt bằng chùa hình chiếc lá Bồ đề, biểu tượng con thuyền Bát nhã đưa chúng sinh về bến Giác. Đó là nhân và cũng là duyên tôn tạo xây
dựng Đinh Long Phạm vũ.
2.
Sở
duyên duyên
Khế
kinh đại thừa Pháp tướng tông có nhiều bài nói về cái duyên. Trong bốn duyên là
Nhân Duyên, Đẳng vô gián duyên, Sở duyên duyên, Tăng thượng duyên. Suy luận về việc
thế gian thì Nhân duyên là cái duyên của Nhân tài, Tăng thượng duyên là cái
duyên của Thiên tài. Sở duyên duyên là cái duyên của Địa tài. Nhân tài là nhân
hòa nhân sự, Thiên tài là thiên văn thiên thời. Địa tài là địa lý, địa lợi. Duyên
thứ tư là Đẳng vô gián duyên là duyên chung của cả ba Thiên-Địa-Nhân.
Việc xây dựng bảo tháp Liên
hoa và các hạng mục công trình chùa Đinh Long chính là sở duyên duyên,
là cái duyên môi trường để trợ lực cho chúng sinh từ thế gian tiến
lên cảnh giới xuất thế gian. Mặt bằng tháp là cấu trúc đồ hình
Mandala với bốn cửa tượng trưng cho tứ trí, bao gồm: Đại viên kính trí,
Bình đẳng tính trí, Diệu quán sát trí và Thành sở tác trí, vị
trí đỉnh tháp ở giữa đại diện cho Pháp giới thể tính trí là tổng
hợp của bốn trí xuất thế gian được chuyển hóa từ bát thức. Chiều
cao tháp là 51,8 m, với 13 tầng mái và đỉnh tháp được
chế tác bằng đồng(trên 2,1 tấn).
Tại bốn cạnh của mỗi tầng tháp được tôn trí tượng Bồ
tát
Quán Âm. Tầng tháp trên
cùng tôn trí tôn tượng Đại Nhật Như Lai. Tổng thể cấu trúc các tầng
mái thu dần tạo hình một búp sen thanh tịnh, biểu tượng cho Phật
tính thanh tịnh thường trụ của tất cả chúng sinh.
Người xưa
tin rằng tạo tháp làm hưng khởi việc học, khoa cử công danh đỗ đạt. Thường những
địa phương nào kém đường học vấn, lâu năm không có người đỗ đạt thì chọn đất dựng
Văn bút tháp, đó là dụng sự của pháp thế gian. Việc tạo dựng bảo
tháp Liên Hoa về mặt trợ duyên cũng như vậy. Phong
thủy Địa lý là pháp thế gian là cái phần tướng của Sở Duyên Duyên. Cách cuộc tốt
đẹp của phong thủy sẽ tạo ra nhiều lợi ích cho xã hội, tạo ra nhiều thế hệ nhân
tài. Tích tụ lâu ngày sẽ tạ ra nền văn hiến.
Cái văn hiến của thế gian nếu biết dùng đúng chỗ đúng lúc thì cũng là cái duyên
cho chúng sinh xuất thế gian theo Phật Pháp. Theo phong thủy học, các hướng nam trũng, đất nhẹ, địa khí tràn ra,
khó có nhân tài, vì thế thường dựng tháp để trấn địa, tháp hình búp sen như ngọn
bút là biểu tượng của giáo hoá, học hành.
Việc
này phù hợp với lời dạy của Đức Phật ở kinh Thủ Lăng Nghiêm. Khi nói về phép
viên thông Địa Đại, Đức Phật nói với Bồ tát Trì Địa tu pháp môn này chuyên môn
làm việc phúc đức xây dựng chùa để làm đạo tràng tu tập hay làm đường, làm cầu,
làm nhà cho dân chúng. Sau này Trì Địa Bồ tát gặp Đức Phật Không Vương. Đức Phật
dạy ông làm việc tốt này nhưng cần phải hiểu cái tâm. Tâm có bình đẳng tốt đẹp
thì thế giới mới bình đẳng tốt đẹp. Đúng như câu nói của chư Tổ:
Có Tâm thế gian tốt đẹp
là có thiện hữu lậu. Có thiện hữu lậu thì sẽ có Long mạch tụ chính khí.
Có Tâm xuất thế gian bình
đẳng thì sẽ có các cõi Tịnh Độ thập phương thanh tịnh tốt đẹp.
Quan điểm của nhà Phật đối với phong thuỷ địa
lý xưa cũng như nay là “Trạch đắc long xà địa khả cư” cuộc đất đắc địa thì môi trường
xung quanh tốt đẹp. Song quan trọng hơn cả là trong lòng-nội tâm- cũng phải có phong
thuỷ tốt đẹp. Nghĩa là nội tâm con người có:
-
Thông gió tốt (Dòng suy nghĩ thông suốt)
-
Ánh nắng tốt (Nhiệt tâm, cởi mở)
-
Tầm nhìn tốt (Hướng tới tương lai)
-
Con đường tốt (Bồ đề chính Đạo)
Đây chính là long mạch tốt đẹp nhất, tuyệt vời
nhất trong nội tâm mỗi con người. Như ta biết vạn vật trên thế gian này, chúng ta
phải quan sát thấu đáo, thấu triệt. Hiểu rõ thiên có thiên lý, địa có địa lý, nhân
có nhân lý, vật có vật lý, tâm có tâm lý…Trong thế giới Sa bà duyên sinh này, bất
kỳ vật gì cũng có cái lý riêng biệt của nó. Địa lý phong thuỷ đương nhiên cũng nguyên
lý. Địa lý là dựa vào địa hình và phương vị thiên thể mà sinh ra ảnh hưởng tác động
tới con người, đây phương thức hoàn toàn tự nhiên. Thuận theo lẽ tự nhiên thì ta
có thể nắm được thời cơ thuận lợi, đạt được địa thế tốt của núi sông, đất nước.
Trái với lẽ tự nhiên, sẽ có kết quả ngược lại. Địa lý phong thuỷ cố nhiên có nguyên
lý của nó. Song không phải là chân lý cứu cánh.
Quan điểm của Phật giáo về thời – không (không
gian bốn thời gian ba) là vô biên, vô cùng vô tận, không có ranh giới. Sinh mệnh
của ta ở khắp nơi, không chỗ nào không có mặt thì làm gì có chuyện phân chia phương
vị thời – không. Bản thể tự tâm chúng ta chu biến khắp pháp giới, khắp cõi hư không,
ngang khắp mười phương, dọc cùng ba đời (quá-hiện-vị lai). Dung hoà nhất thể với
thời - không vô hạn, vì vậy phương vị không ở đâu khác, mà nó ở ngay trong nội tâm
của mỗi con người.
Sách
“Sơn thủy trung can tập” viết rõ : “Núi hướng về không bằng có dòng nước
hướng về, dòng nước hướng về không bằng có dòng nước vây quanh, dòng nước vây
quanh không bằng có dòng nước tụ. Dòng nước tụ thì long hội, long hội thì đất lớn”.
Đây chính là địa lý phong
thuỷ của chùa Đinh Long, lời nói không tới, chỉ khi
chúng ta trực hiện mới có thể thấy và biết.
Vậy
có thơ rằng:
Tịnh
tướng, tính chân: thể đó mà
Vô
biên diệu dụng: Nhất liên hoa
Lá
cành cội rễ thành hoa quả
Lâu
chóng nhỏ to lực tác ra
Duyên
khởi trùng trùng: vô lượng pháp
Nhị
môn tích bản: Nhất là đa
Thị
khai ngộ nhập Phật tri kiến
Diệu
pháp Liên Hoa: tướng Phật đà.
Long thành, trọng đông Quý Mão-2023
Thứ Hai, 29 tháng 5, 2023
Bài tham luận kiến trúc chùa Việt, thống nhất trong đa dạng:
CÁC NGUYÊN TẮC CƠ BẢN
TRONG KIẾN THIẾT CHÙA VIỆT
Ths MBA. KTS. Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng
(Nội dung của bài tham luận của chúng tôi mạnh dạn nêu khái quát chung về quy hoạch, thiết kế xây dựng kiến trúc chùa Việt thông qua kinh nghiệm làm việc thực tế trên 20 năm của một Kiến trúc sư.)
Căn cứ vào thực tế hiện trạng, một
ngôi chùa muốn xây mới, tu bổ hay mở rộng sẽ chịu ảnh hưởng quyết định bởi
nhiều yếu tố khác nhau về quy mô, địa hình, khí hậu, nhu cầu sử dụng…Sự ảnh
hưởng đó tạo nên bản sắc với nét đặc trưng riêng của từng ngôi chùa.
Tuy nhiên cấu trúc một ngôi chùa luôn phải tuân theo
các nguyên tắc chung sau:
1.
Định hướng quy
hoạch
1.1.
Nguyên tắc Chọn đất
và ngày tốt giờ tốt: Theo quan niệm xưa nay việc chọn đất và hướng xây dựng mở
rộng chùa có một ảnh hưởng to lớn đối với con người sống trên đó. Kinh nghiệm
cho thấy đất xây chùa tốt là nơi bên trái trống không hoặc có sông ngòi, hồ ao
ôm bọc. Bên phải có núi hay công trình phải cao dày, lớp lớp quay đầu lại, hoặc
có hình hoa sen, tràng phan, bảo cái, hoặc có hình rồng phượng, quy xà chầu
bái. Thủy thì nên chú ý thủy khứ, thủy lai, thủy (nước) nên chảy quanh sang
trái. Thế đất trước mặt nên tạo khoảng trống làm minh đường. Tiền minh đường là
hướng trước mặt nếu có lưu thủy dòng chảy, có tụ thủy thành hồ ao lại thêm tốt.
Hậu ngai tọa (phần không gian phía sau chùa) không cần phải có thế núi áp kề
nhưng cần nhất phải có khoảng đất rộng sau lưng Chùa là cách có Địa Hậu thì
những vị trụ trì ở đó sẽ được cách tương lai có nhiều đệ tử tốt kế tục được sự
nghiệp của mình.
Việc chọn ngày giờ tốt để tiến hành khởi công xây dựng mở rộng nên theo
các phép xem ngày giờ được lưu truyền lại chọn ra ngày giờ phù hợp thuận tiện
cho việc mở đầu và kết thúc được viên mãn.
1.2.
Nguyên tắc chọn Hồng
Chùa: căn cứ vào hiện trạng mà bố trí để thuận cho việc giao thông. Thông
thường hướng Chùa được bố trí theo ba hướng sau:
- Hướng Tây: Là hướng về đất Phật lịch sử, là hướng chung của
các ngôi chùa cổ như: Chùa Dâu, Chùa Phật Tích, Chùa Pháp Vân,Chùa Chân Tiên…
- Hướng Nam (Từ Hướng Đông Nam đến Tây Nam), đây là hướng phù hợp với các
vùng địa lý có khí hậu khắc nghiệt. Bố trí hướng chùa theo các hướng Nam để
tránh rét về mùa đông có được sự mát mẻ về mùa hè.
- Hướng Đông: Đa phần các chùa Tiểu Thừa Khơme Nam bộ bố trí hướng chùa
về hướng Đông, đây là hướng nhìn của đức Bản sư Thích Ca Mâu Ni Phật khi ngài
đắc đạo tại cội Bồ Đề.
Như vậy dù là hướng Tây, Nam Đông khi định vị các hạng
mục cần tuân theo quy hoạch tổng thể đã định trước, theo một số sách cổ để lại
căn cứ vào hướng chính chú ý chọn kỹ để được hướng thuận về Thiên- Địa - Nhân
gọi là hướng Bảo Châu.
Tóm lại: Quy trình chọn hướng, thế đất và ngày giờ tốt
phải được coi là phương tiện để cho mọi việc được thuận lợi và có kế hoạch rõ
ràng, tạo nên tinh thần quyết tâm cao nhất trong việc xây dựng tu bổ Chùa.
2.
Thiết kế kiến
trúc Chùa với các nguyên tắc căn bản
Bố cục trong kiến trúc chùa truyền thống Việt Nam từ
xưa đến nay đều phải đầy đủ các hạng mục theo thất đường Già lam và phải tuân
theo một số quy luật và nguyên tắc tạo hình: thống nhất và biến hoá, tương phản
và dị biến, vần luật và nhịp điệu.
2.1.
Bố cục kiến trúc:
Tổng thể khuôn viên chùa thường được bố trí đăng đối qua một trục (gọi là trục
Chính Đạo hoặc được bố trí xoay quanh một tâm điểm ( Tháp Phật, đài Quan Âm)
tạo sự cân bằng, trang nghiêm bề thế cho công trình. Ngay trong mặt bằng công
trình cũng được bố trí hợp khối từ những hình chữ nhật để tạo nên sự cân bằng
và ổn định. Bố trí tượng thờ trong mặt bằng cũng thường được bố trí đăng đối
qua trục. Ðối với các công trình phụ khác trong khuôn viên, thông thường nếu có
đủ diện tích thì người ta cũng xây dựng theo kiểu đối xứng. Tuy nhiên tuỳ theo
địa hình và nhu cầu xây dựng mà có những thay đổi phù hợp. Với các công trình
như vườn tháp, gác chuông lại có dạng bố cục hướng tâm, mặt bằng có thể là hình
vuông, hình lục giác, hình bát giác hoặc hình tròn.
2.2.
Nguyên tắc trọng
điểm của việc thiết kế bố cục kiến trúc chùa: Phần kiến trúc chính (Đại Hùng
Bảo Điện) nằm trên trục chính Đạo bao giờ cũng rộng nhất và thường cao nhất
được tập trung mọi tinh hoa kiến trúc và nghệ thuật.
2.3.
Ðặc thù nghệ thuật
trong tạo hình kiến trúc nói chung và chùa được biểu hiện rõ nét ở mối tương
quan tỷ lệ. Tỷ lệ chính trong bản thân, giữa cái lớn cái bé, cái chung cái chi
tiết, tỷ lệ giữa các chiều trong không gian,... Và được thể hiện cả ở mối tương
quan giữa công trình với môi trường xung quanh, với thiên nhiên cảnh quan.
Trong kiến trúc chùa truyền thống không có các công trình kiến trúc đồ sộ. Các
công trình có kích thước tương đối lớn cũng gắn bó hoà hợp với thiên nhiên và
con người, không có tác động thống trị và áp đặt lên thiên nhiên và con người.
2.4.
Về cấu trúc mặt
bằng: hầu hết các hạng mục công trình Chùa đều tổ hợp từ hình chữ nhật với các
gian lẻ. Các tỷ lệ giữa thành phần kết cấu nhà với nhau bao giờ cũng có một sự
tương quan kích thước nhất định mang đến sự hài hoà. Về không gian chùa được
xây dựng bằng vật liệu gỗ chủ yếu được quyết định bởi các bộ vì. Bộ vì được
hình thành bởi 6 cây cột (2 cột cái, 2 cột quân và 2 cột hiên) hoặc 4 cây cột (
2 cột cái và 2 cột quân). Vì kèo có tỷ lệ đứng / ngang = 2/3 tạo thành độ dốc i
= 66,6 %.
2.5.
Nguyên tắc liên hệ
và phân cách: Sự liên hệ và phân cách thể hiện qua các bộ phận, các thành phần
kiến trúc khác nhau và rõ nhất là yếu tố hình khối thiên nhiên và kiến trúc
công trình tương đối độc lập nhưng nhờ không gian mở của hàng hiên, của các dãy
nhà hành lang, làm yếu tố chuyển tiếp đã khiến không gian vườn như ăn sâu vào
công trình. Sự liên hệ ở đây còn được thể hiện bởi các dãy hành lang kết nối
các hạng mục công trình chính để đảm bảo cho một liên kết chặt chẽ về không
gian và thích dụng.
2.6.
Yêu cầu về nhân
chủng học và nhu cầu hoạt động của con người kết hợp với đặc tính của gỗ, quy
mô không gian do kết cấu gỗ tạo nên... đã đạt được tính tỷ lệ về con người và
kiến trúc. Một số chùa không có khả năng sử dụng gỗ có thể thay thế bằng kết
cấu bê tông cốt thép. Cho dù dùng loại vật liệu gì chăng nữa Tỷ lệ không gian
của công trình cần phải đáp ứng và tuân thủ để đạt được sự gần gũi và gắn bó
với hoạt động của con người.
3.
Vật liệu xây dựng
chùa
Hiện nay được sử dụng là các chủng
loại phù hợp với môi trường khí hậu tại địa phương, từ tre, tranh, gạch ngói,
bê tông, đá, gỗ, Các công trình truyền thống thường sử dụng vật liệu gỗ (
thường gặp gỗ lim, gỗ đinh, gụ, táu... cho hệ thống kết cấu khung cột, hệ thống
cửa, rui hoành... Ðá thường được sử dụng là đá nguyên khối từ đá ong, đá sa
thạch, đá xanh... sử dụng trong nền, bậc cấp, chân tảng. …
Vật liệu đất nung được sử dụng và chế
tác thành các sản phẩm đáp ứng các mục đích sử dụng khác nhau. Ví dụ, mái các
công trình lợp ngói lòng máng như âm dương, ngói ống ... và mái lợp ngói bản
như ngói mũi hài, vẩy rồng, vẩy hến, ngói di, ngói liệt là dạng mái nhiều lớp,
dưới cùng là lớp ngói lót, trên là các lớp ngói chính được xen chồng lên nhau
để che mưa nắng. Tường tại các công trình chùa thường là tường gạch nung,
gạch hỗn hợp vôi đất, xi măng, đá ong. Gạch bát được sử dụng để lát
nền sân, hiên... Gạch trang trí phủ ngoài mặt tường, tháp, gạch nung sành để
làm tháp mộ, gạch xây cột vuông...
Ðối với kết cấu bê tông bắt đầu thấy
xuất hiện từ cuối nhà Nguyễn thời kỳ thuộc Pháp, điển hình là cụm di tích Hưng
Ký và trang trí trên mặt đứng hay trên kết cấu đều được làm bằng sứ, gỗ và ghép
liền với mặt bê tông của kết cấu. Giải pháp sử dụng bê tông cốt thép sẽ tạo ra
quy mô chùa lớn với khả năng vượt khẩu độ không giới hạn tạo ra các không gian
đủ lớn đáp ứng nhu cầu hoằng pháp cho rất đông người trong cùng một thời
điểm.
Ngoài người Kinh, một số dân tộc thiểu số khác ở Việt
Nam cũng có chùa. Chùa người Mường làm bằng tre đơn giản. Chùa người Khơme được
xây dựng đẹp, có bộ mái biểu hiện ảnh hưởng Campuchia và Thái Lan. Chùa người
Hoa thường tạo hình với chất liệu tô vẽ mang sắc thái kiến trúc riêng. Thông
thường thì vật liệu xây dựng chùa là các vật liệu tốt nhất có thể được.
Giờ
đây với sự phát triển đa dạng của công nghệ vật liệu xây dựng mới, việc tu bổ
cải tạo, mở rộng chùa cũng như xây dựng mới ảnh hưởng bởi chất liệu xây dựng tiên
tiến nên chùa Việt Nam có thêm nhiều giải pháp xử lý về mặt kết cấu cũng như bề
mặt hoàn thiện. Tổng hợp các yếu tố mới này đã tạo ra tính đa dạng của kiến
trúc chùa Việt Nam đương đại.
4.
Kỹ thuật xây
dựng.
Yêu cầu về Ðộ bền vững là một đặc
trưng chính của các công trình kiến trúc Chùa. Bí quyết làm cho các kiến trúc
gỗ bền vững, bên cạnh việc chọn vật liệu (gỗ to, gỗ tốt, đá cứng hay gạch nung
già). Trong kiến trúc gỗ nhân tố cơ bản chống đỡ kiến trúc là các bộ vì. Bộ vì
được hình thành bởi các cây cột, hệ thống liên kết cột và là sự kết hợp hài hoà
hai yếu tố là lòng nhà và độ chảy của mái nhà. Sau đó, người ta nối các vì với
nhau bằng hệ thống xà ăn mộng qua các cột. Lực ép và sức nặng của toàn bộ mái
nhà dồn xuống các đầu cột. Các câu đầu, xà nách, kẻ, bẩy, các đầu dư, đầu nghé
hợp lý cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ cân bằng và gánh đỡ kiến trúc
của bộ vì.
Ngày nay việc kết hợp giữa kinh nghiệm
truyền thống với sự tính toán hợp lý của công nghệ máy tính hiện đại về cả hình
học, vật lý, cả về mỹ thuật và kỹ thuật thi công xây dựng. Ðó là giá trị về
tính toán cho kiến trúc chùa luôn nằm trong thế cân bằng và ổn định.
5.
Màu sắc trong
kiến trúc Phật Giáo
Màu sắc của chùa dùng màu tự nhiên của
vật liệu xây dựng, màu nâu đỏ của mái ngói, màu nâu của kết cấu bộ vì, vách gỗ,
màu xám nhạt của chân tảng, của bậc thềm đá... Màu vôi trắng của tường đầu hồi
hoặc màu tự nhiên của các hàng gạch xây tường miết mạch không trát. Các hoạ
tiết đôi lúc được trang trí bằng màu, màu xám nhạt của bờ nóc, bờ dải, bờ guột
và đầu đao góc mái. Một số dạng màu thường được sử dụng trong các công trình để
tạo nên sự tương phản về độ sáng. Ví dụ như gam màu trắng của tường quét vôi là
sáng trong khi gam nâu sậm của gỗ là tối, hoặc gam đỏ sậm của gạch trần là tối
nổi lên khoảng trắng của cửa sổ là các hình chữ Vạn hoặc biểu tượng sắc - không
đắp vữa...
Ngoài màu tự nhiên của vật liệu, một số công trình còn
sử dụng màu vàng và đỏ của đồ gỗ sơn son thếp vàng. Các gam màu vàng đỏ có thể
bắt gặp ở bất kỳ một công trình chùa nào trong các đồ thờ, tượng, hoành phi...
Màu vàng son với ánh sáng đèn, nến, hương khói mờ ảo tạo nên một không gian
linh thiêng hơn, vừa thực lại vừa hư, thể hiện triết lý vô vi của nhà Phật.
Một số chùa việt qua giao lưu văn hóa học tập các nước
bạn, do đó có thể nhận thấy màu sắc khác nhau trong một số công trình. Cột phủ
sơn mài thếp vàng và vẽ hình mây, rồng cuốn với hai màu vàng đỏ là chủ đạo, vẽ
bột màu trên các hoa văn trang trí với màu sắc sặc sỡ ...
Chùa truyền thống ba miền Việt Nam có một nét chung là
ánh sáng trong chùa rất ít, chủ yếu là sử dụng ánh sáng khúc xạ và phản quang
thông qua các bộ phận như cửa sổ, cổ diêm hoặc thiên tỉnh và ánh sáng nhân tạo
là đèn, nến... Ðiều này là kết quả của việc quan niệm nơi thờ Phật thì phải
linh thiêng, huyền bí, trang nghiêm, kiến trúc như vậy phải u trầm tĩnh mịch
tạo một tâm lý tôn kính cho con người bước chân vào nơi cửa Phật.
6.
Trang trí, điêu
khắc công trình.
Bố cục trong một tác phẩm điêu khắc là thước đo lớn
nhất cho sự thành công của tác phẩm. Trong kiến trúc cổ, ta thường gặp bố cục
theo kiểu cân xứng ( những cặp rồng, những hoa văn hoạ tiết đối nhau...). Bố
cục hướng tâm ( có hoa văn trung tâm trong một khung khép kín), bố cục hình dải
gọi là hồi văn ( hoa cúc, dây hình chữ vạn, pháp khí...)
Kiến trúc chùa sử dụng điêu khắc và hội họa từ các hoa văn, đề tài trang trí mang đậm ý nghĩa tượng trưng góp phần vào việc giác ngộ chúng sinh bởi các điển tích được nói đến trong kinh Phật, như là một yếu tố phụ trợ tăng tính nghệ thuật đồng thời diễn đạt ý nghĩa biểu trưng, mang đậm triết lý nhà Phật.
Tạm kết:
Trên đây chúng tôi mô tả mang tính
khái quát các vấn đề cốt lõi của Quá trình thiết kế xây dựng và tu bổ Chùa. Căn
cứ vào hiện trạng cũng như nhu cầu ngắn hạn và dài hạn, trước khi bắt tay vào
triển khai phải cân nhắc cẩn trọng trong việc quy hoạch định hướng tổng thể.
Việc làm thiết thực này sẽ tránh được sự lãng phí không cần thiết.
Theo dõi bước đi của ngôi chùa Việt Nam qua suốt chiều dài lịch sử, chúng tôi thấy rõ ở mỗi thời kỳ, các ngôi chùa, ngọn tháp đếu có một kiểu dáng riêng biệt. Bao giờ cái truyền thống cũng gắn với cái hiện đại, việc tiếp thu các kiểu kiến trúc của các chùa tháp trên thế giới cũng như các giải pháp sáng tạo có được bắt nguồn từ công nghệ vật liệu và công nghệ xây dựng mới cần phải chú ý để không làm mất đi bản sắc dân tộc. (“Những nguyên tắc cơ bản trong kiến thiết chùa Việt (ThS.KTS Quảng Kiến ...”) Cái bản sắc dân tộc ở đây phải được nhìn nhận là sự phù hợp với con người và tư duy thời đại mới ở sự cảm nhận về mỹ thuật, về kiến trúc kết hợp với nhu cầu sử dụng. Đây là bài toán khó, nhưng ông cha ta đã làm được. Âu cũng là điều chúng ta phải suy nghĩ trong hiện tại.
Thứ Sáu, 12 tháng 5, 2023
BÁT NHÃ THI KÝ
BÁT NHÃ THI KÝ
Tuyển tập 2 – Thơ và ký
hoạ
QUẢNG KIẾN NGUYỄN VIỆT HỒNG
Trang 1-2
LỜI PHI LỘ
“Bát Nhã thi ký” là tập hợp những bản ký hoạ, kệ
và những bài thơ
về các triết lý, khái niệm khác nhau của Phật
giáo.
Những nét hoạ phong cảnh chùa, những vần thơ trào
hứng,
từ nguồn mạch tâm linh bình lặng, từ ý nguyện Quy
Y Tam bảo,
để vượt qua chặng đường cát bụi.
Dù tất cả những rung động hay phóng tác của nét
bút,
của thi ca, được tác giả lưu lại với bất cứ tâm thức
nào đi nữa,
thì chúng vẫn là kết quả đáng trân trọng trên con
đường tu để chứng.
Tùng lâm Hương Tích xin được giới thiệu,
tập thơ của tác giả Phật tử Quảng Kiến Nguyễn Việt
Hồng.
Sa môn Thích Minh Hiền
Trang 3-4
Mười năm tu Phật không dài nhưng cũng chẳng ngắn.
Vì nhiều nhân duyên: ĐÃ-ĐANG-ĐỂ,
Quảng Kiến nay tạm tổng kết, làm mốc quy chiếu để tiến
lên.
ĐÃ-ĐANG-ĐỂ
(ĐÃ)...
Mười năm tu Phật chưa ngừng nghỉ
Chẳng có chi khoe, nỏ muốn gì
(ĐANG)...
Tu mật, tham thiền, hành tịnh độ
Quán-Chân, ly-vọng: hướng Vô-vi
Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm... học
Ngũ ấm giai không, ngũ-trí trì
Vô-hữu, diệt-sinh...giờ khái niệm!
Từ Bi Hỷ Xả...hạnh đang vì.
(ĐỂ)...
"Vô tận không thời vô tận ý
Thị chưa từng bận huống gì phi.”
Trang 5-6
DIỆU PHÁP LIÊN HOA
Vô biên diệu dụng: Nhất liên hoa
Lá cành gốc rễ thành hoa quả
Lâu chóng nhỏ to lực tác ra
Duyên khởi trùng trùng vô lượng pháp
Nhị môn tích bản: Nhất là đa
Thị khai ngộ nhập: Phật tri kiến
Diệu pháp liên hoa: Tướng Phật đà.
Trang 7-8
QUY Y TAM BẢO
Dẫn:
Đời người một thoáng
chiêm bao
Sống không tu chỉnh khác
nào sống mê.
Nhập:
Quy y Tam Bảo,
Quay về bản tâm thanh tịnh
xưa nay.
Kìa Bát-phong gió thổi
mây bay,
Nhà Vô-Sự hỏi là đây có phải?
Sáng rung chuông nhất tâm
hối cải,
Chiều gõ mõ niệm Phật tụng
kinh.
Thi thoảng trong tâm có
hiện vọng tình,
Kẻ mới tu giật mình giấc
mộng huyễn
Này tứ cú kệ, này Kinh vạn
quyển,
Này lý thời không, này
trí Bát Nhã.
Thoáng suy sao tỏ Phật -
Ma,
Bởi Lý Sự nó trùng trùng
duyên khởi.
Vạn pháp duy tâm lý đó mà
tới,
Vạn hạnh thật tính sự đó
mà đi.
Tâm phân biệt ấy có
Vô-Vi,
Hay để cảnh hiện tiền đưa
đi mãi?
Tỉnh thức từ đây không sợ
hãi,
Tu pháp chư Phật chẳng có
sai.
Càng tinh tiến Đạo-hạnh
càng cao!
Trang 9-10
CHÂN KHÔNG
Phật tính xưa nay vốn tịnh
thường
Xuất trần đại sự toả vầng
dương
Trì kinh niệm chú tâm
khai mở
Hành thiện giúp đời tỏ tấm
gương
Hỷ xả từ bi, chân diện mục
Ban vui cứu khổ, hiểu và
thương
Đêm ngày tỉnh thức, chân
không quán
Tịnh độ nhân gian, rõ con
đường.
DIỆU HỮU
Bản Tính vô hình, Tướng
diệu-không
Tham sân si hận bởi chưa
thông
Trùng trùng duyên khởi Sa
bà hiện
Kiếp kiếp luân hồi bởi
huyễn-không
Tỉnh mộng quay về soi tự
tính
Kéo rèm mở cửa đón vầng
đông
Bốn mùa như vậy tâm thanh
tịnh
Đối đãi ngại gì có với
không.
Trang 11-12
MẸ BÁT NHÃ
Mẹ từ tự tính sinh ra
Nuôi con khôn lớn dạy xa
não phiền
Nơi võng ru tới mọi miền
Nương nhân duyên khởi tu
thiền quán không
Mẹ là giọt nước lành
trong
Xoá tan hư huyễn thong
dong đi về
Mười phương cũng một miền
quê
Làm duyên khai ngộ giác
mê cho người
Mẹ là một đoá hoa tươi
Điểm tô chân lý ở nơi hồng
trần
Vì chúng sinh hiển pháp
thân
Từ Bi Hỷ Xả thập phần
viên thông
Muôn kiếp mẹ vẫn dõi
trông
Giúp đàn con nhỏ thoát
vòng tử sinh
Người là Bát Nhã tâm kinh
Dìu con từng bước tiến
trình ngộ Tâm.
Trang 13-14
CHÙA GIẢI OAN
Chùa Giải Oan đây Đức
Quan Âm
Nghe cầu và cứu độ chúng
sinh
An vui giải thoát hết não
phiền
Đến cửa thiền người người
tu thiện
Đây suối nguồn cam lộ
thiêng liêng
Nghe Phật sinh linh quy
chính pháp
Vững lái thuyền từ qua biển
khổ
Bên kia: bờ giác đến nơi
rồi.
Oan oan giải giải oan đâu
giải
Thân, tâm, ngã, pháp ấy:
Chân không
Trí, ngôn, đắc,hành: là
vô tướng
Quá khứ hiện tại đến vị
lai
Thuận theo tính chân vốn
không mê
Nguyện tu Phật thừa là vô
ngộ
Bờ mê huyễn hóa như trò dối
Thuyền từ phương tiện độ
chúng sinh
Bến giác an trụ mà vô trụ.
Trang 15-16
Mải tìm,
tâm giữa hư không
Mòn chân mỏi gối
Dặm không rã rời
Ta bèn,
Đến chốn không nơi
Ngồi nơi không chỗ
Thấy tâm chẳng rời.
TÍNH DIỆU
Vẫn nên đi đến chốn không
nơi
Để thấy rõ hơn cái chẳng
rời
Thủy, Hỏa, không-hư từ diệu
biến
Bất giác chẳng hiện, gió
mây thôi.
Trang 17-18
PHÁP THÂN
Đêm đông chùa vọng tiếng
chuông ngân
Sóng ánh trăng thanh cảnh
sáng ngần
Ngọn cỏ đầu sương bừng tỉnh
ngủ
Tháp vương đỉnh bạc chiếu
xa gần
Tâm thôi tục lụy: trần
không vướng,
Vạn tượng Sum la hiển
pháp thân.
Ai rõ Chân-không và Diệu-hữu,
Vô-vi cảnh giới mới thêm
phần!
PHƯƠNG TIỆN
Pháp giới tịch nhiên chẳng
thể mờ
Có chăng cũng ở chỗ văn
thơ
Sớm về ai đã là nhanh biết
Muộn đến người chưa tỉnh
giấc mơ.
Xứ diệt tâm hành chư Tổ dạy
Ngôn thời khác biệt bởi
căn cơ
Nếu hay đạo cả vô phân biệt
Phương-tiện tuỳ duyên chớ
hững hờ.
Trang 19-20
TÍN
Niệm A Di Đà
Sớm thoát Sa Bà
Sinh miền Cực Lạc
Não phiền trôi xa!
NGUYỆN
Niệm A Di Đà
Điên đảo tránh xa
Tâm thường tịch tĩnh
Dẹp hết ấm ma!
HẠNH
Niệm A Di Đà
Tính Phật, tính ta
Thấy cùng một thể
Hết cảnh Sa bà!
HÀNH
Niệm A Di Đà
Hết thiện với tà
Rời xa phân biệt
Theo bước Phật Đà!
CHỨNG
...theo bước Phật Đà
Tự giác, giác tha
Vãng sinh Cực Lạc
...Tịnh độ tâm Ta!
Trang 21-22
VÔ TRỤ
Con đò dẫu vắng người đưa
Dòng sông vẫn chảy sớm
trưa nắng đời
Đến đi nhưng chẳng có rời
Đò này vô trụ chở người
vô tâm.
THUYỀN KHÔNG
Tâm bình cõi tạm hiểu
thương thôi
Mây trắng đường xưa tĩnh
lặng rồi
Sáng nắng chiều mưa đời
huyễn ảo
Lên cao xuống thấp nghiệp
không rời
Tu hành tinh tiến điều
chân thật
Bát nhã thuyền không rẽ
sóng chơi
Rực ánh quang minh đưa dẫn
lối
Tâm bình cõi tạm hiểu
thương thôi
Trang 23-24
THÂN THỤ TÂM PHÁP
Quán thân bất tịnh
Sự vật tướng tâm
Huyễn huyễn minh minh
Chẳng mình, chẳng vật
Thân là bất tịnh.
Thụ quán là khổ
Khổ hạnh là tà
Có vui có khổ
Thế tục mãi khổ
Quán thụ thị khổ.
Quán tâm vô thường
Chạy khắp mọi đường
Tạo lắm tai ương
Chấp thường chấp đoạn
Cõi tục: vô thường.
Quán pháp vô ngã
Sinh diệt giả dối
Duyên diệt duyên sinh
Người không ta chẳng
Luân hồi:vô ngã.
Trang 25-26
TÌM EM
Tìm em ở bến chân Tâm
Dong thuyền Bát-Nhã âm thầm
anh qua
Duy-Thức tướng sóng gần xa
Lăng-Nghiêm đại định bao
la đất trời
Pháp-Hoa một đoá sen tươi
Ngời trong ánh mắt mười
phương Sa Bà
Chính tà một thể Duy-Ma
Rời xa vọng tưởng
Lăng-Già truyền trao
Tĩnh tịch mặc kệ trần xao
Thấy em vẫn đó chưa bao
giờ rời.
Trang 27-28
TIỂU THỪA
Theo gió chiều nay rời chốn
cũ
Thời gian mặc kệ tiết
xuân thu
Rời xa vọng tưởng miền hư
ảo
Tránh lại quẩn quanh vũng
nước
ĐẠI THỪA
Thế gian hám cảnh vũng nước
tù
Hành Bồ tát đạo nguyện
thanh tu
Uế trược ra sao đều huyễn
ảnh
Đạo thành cũng ở lục căn
thu.
Trang 29-30
ĐI LÀ TỚI
Mọi sự đều phải tự ta
Cơm ăn áo mặc cũng thế mà
Đường xa vạn dặm đi là tới
Muôn nẻo luân: hồi bước
chân ra
TỪ ĐÀM GIÀ LAM
Bước tới Từ Đàm hết nói
năng
Đèn kia có sáng chẳng bằng
trăng
Sớ sao cũng chỉ là mây
gió
Đốm lửa tro tàn: nước
đóng băng.
Trang 31-32
TỔ SƯ BỒ ĐỀ ĐẠT MA
Đông Độ xưa kia Tổ hóa
duyên
Một mình quẩy dép dụng
phao thuyền
Chín năm bích diện ngài
tu quán
Vô thỉ chúng sinh quên bản
nguyên
Tuệ Khả cầu sư tìm sự thật
Vì tâm tối thượng chặt hữu
quyền
Từ da tới tủy đường tu chứng
Sư tổ truyền Tâm: chính
pháp truyền.
Trang 33-34
CHÂN KHÔNG
Không đây là chẳng có chi
Có thì cũng chẳng là gì
nên không
Không đây chẳng phải có
không
Có là Diệu-hữu Không là
Chân-không
DIỆU HỮU
Vạn pháp bản lai chẳng
có-không
Có chăng thế tục nợ đèo bồng
Không là không tướng ta cần
rõ
Diệu-hữu, Chân-không vốn
vẫn đồng.
Trang 35-36
ĐỘNG ĐẠI BINH
Đại Binh tĩnh mịch cõi
Hương Thiên
Có bóng hình ai trước cửa
thiền
Thuở trước anh hùng lưu sử
sách
Giờ đây còn lại hạnh
trung kiên
Một thanh gươm vạch trời
ngang dọc
Bão táp há dời được nguyện
riêng
Đại địa viên dung là đúng
lý
Chẳng còn tướng ngã, chẳng
còn phiền.
Trang 37-38
THIỀN TỊNH MẬT
Hãy nên tu thiền
Bỏ chấp nhị nguyên
Xa rời đối đãi
Sạch hết não phiền.
Thường tu tịnh độ
An vui chẳng khổ
Sinh gặp Phật Đà
Lo gì chẳng ngộ.
Quán tưởng chân thật
Tinh tiến tu mật
Tịnh thân-khẩu-ý
Thì mau quả Phật.
KỆ THỈNH CHUÔNG
Tu Tâm dưỡng tính
Cùng thỉnh chuông minh
Pháp thân ứng hiện
Địa ngục nghe kinh
Tam đồ hết khổ
Bát nạn tiêu khuynh
Thường tuỳ Phật học
Cứu độ chúng sinh
Tài danh xin gửi
Bất diệt bất sinh.
Trang 39-40
THIÊN TRÙ
Đã lâu sam cảnh chẳng về
nhà
Nhớ tiếng chuông chùa vọng
xa xa
Thung thẳm núi cao chim
đua hót
Rừng già mây rủ với ngàn
hoa
Rêu phong cạnh đá in bóng
núi
Dâu bể vơi đầy đã trôi
qua
Bao giờ mưa bão đời ngừng
nghỉ
Ta lại đi về với chính
ta.
Trang 41-42
XƯA- NAY
“Thu lai bất báo nhạn lai
quy
Lãnh tiếu nhân gian tạm
phát bi
Vị báo môn nhân hưu luyến
trước
Cổ sư kỷ độ tác kim sư.”
( Kệ thị tịch Tổ sư Từ
Đạo Hạnh )
Chẳng phải thu về nhạn mới
bay
Cười cho thế sự trả rồi
vay
Sao không chính niệm rời
năng sở
Tỏ bản Tâm xưa chẳng khác
nay.
( Quảng Kiến hoạ thơ Tổ
)
Trang 43-44
THANH TỊNH CẢNH
Chuông vang thức tỉnh nơi
nơi
Gieo duyên chân lý khắp
trời nở hoa
Suối trong chảy khắp sơn
hà
Vui thanh tịnh cảnh mặc
tà huy bay.
Trang 45-46
VÔ ĐỘNG
Chẳng đến cùng đi chốn bụi trần
Tâm thường hỷ xả những
tham sân
Ngoài trong như vậy thường
vô động
Mặc gió mây ngàn có với
không.
TÂM ĐỊA
Trạch đắc long xà địa khả
cư
Dã tình chung nhật lạc vô
dư
Hữu thời trực thướng cô
phong đỉnh
Trường khiếu nhất thanh
hàn thái hư.
( Tổ Không Lộ )
Ở nơi tâm địa mới chân tu
Vui xuất thế gian lục căn
thu
Thi thoảng dạo chơi đầu
chóp núi
Cười to một tiếng biến
không hư.
(Quảng Kiến họa thơ )
Trang 47-48
TỰ TÍNH
Tự tính chỉ là tự tính
thôi
Tính đi tính lại, tính
luân hồi
Tuỳ duyên ảnh hiện mà
Không- tính
Tự tính thế nào?... tư
tính coi?!
Mỏi mắt nhân gian nhuốm bụi
hồng,
Con đường tu đạo sẽ viên
thông.
Mênh mang sinh diệt nơi trần
thế,
Mải miết đi về với chủ
ông
Tinh tiến xa rời không với
có,
Muôn đời tự tại có cùng
không.
Bích chi, La Hán, đây Bồ
Tát,
Chư Phật, chúng sinh tự tính
đồng.
Trang 49-50
VIÊN GIÁC
Có không vô trược thể
giác viên
Bản thể Chân không ấy
quán thiền
Diệu dụng Bồ đề là đắc đạo
Thập Ba la mật độ nhân
thiên.
NGŨ ẤM LĂNG NGHIÊM
SẮC ẤM
Bất giác khởi nên hình
Sắc ấm từ tâm sinh
Luyến lưu cùng thức vọng
Chẳng thấy tính Diệu-Mminh.
THỌ ẤM
Theo vọng ấy chúng sinh
Giác tâm theo thật lý
Vạn vật chẳng hợp ly
Bồ đề thường tịch tĩnh.
TƯỞNG ẤM
Bóng kia bởi có hình
Chẳng diệt với chẳng sinh
Bọt nước thì cũng vậy
Lay động mới nên hình.
HÀNH ẤM
Bởi thấy giác làm minh
Nên hình thành năng- sở
Sáu căn thường trăn trở
Ngăn ngại tự tâm mình.
THỨC ẤM
Luyến lưu tình với cảnh
Đâu rồi cái minh - anh
Huyễn hư là không thật
Pháp giới tính-diệu
thành.
Phá NGŨ ẤM ma:
Sáu căn tuỳ dụng công
Phát khởi tính viên thông
Ngoài tri và ngoài trí
Rõ mây nước vẫn đồng.
Trang 51-52
TÂY THIÊN
Muốn đến Tây thiên
Trước hành thập thiện
Bỏ các ác hành
Tinh tiến đi nhanh
Chăm tu thiền định
Tùy duyên nhưng tịnh.
Cứu khắp hữu tình
Ngộ tính Chân không.
Tinh tiến tu tâm
Nhập pháp thậm thâm
Tâm không Tâm có
Thấy rõ chẳng nhầm.
Đó là cốt lõi
Chẳng còn thưa hỏi
Vì còn lời nói
Chẳng phải chân thiền
Ở cõi Tây Thiên.
THIỀN TÂM
Tu hành theo Phật tỉnh
không say
Tam tạng kinh văn lý hiển
bày
Bát nhã sắc không vô sở
trụ
Lăng Nghiêm tính thấy rõ
đêm ngày
Non xanh, thật tướng hoa
chân lý
Nước biếc, thiền tâm bóng
Thiện tài
Xuân đến ngàn hoa khoe sắc
thắm
Tu hành theo Phật tỉnh
không say.
Trang 53-54
THẤT NGÔN BÁT CÚ
Thất đại xưa nay vốn thể-không
Ngôn từ văn ngữ: nghĩa là
đồng
Bát đường thánh đạo: theo
đại trí
Cú thật, viên thông: đó
Phật tông.
GIẢI THOÁT KHÁI NIỆM
Giải-thoát tâm mình, giải-thoát
đau
Vấn-vương nghiệp cũ, vấn-vương
sầu
Tâm-ta vốn sẵn, tâm-ta nhớ
Nương-nhờ người độ,
nương-nhờ đâu
Tự-giác giác tha, tự-giác
đúng
Tu-hành giải đãi, tu-hành
lâu
Tử-sinh khái niệm, tử-sinh
khổ
Khái-niệm đoạn thường,
khái-niệm nhàu!
Trang 55-56
Ngũ quán QUÁN THẾ ÂM BỒ
TÁT
Chính quán Quan Âm đã luyện
tu :
Quán-chân đã phá hết lao
tù
Quán-tâm-thanh-tịnh không
còn nhiễm
Quán từ, bi quán : hết mê
ngu
Quán-chân-trí-tuệ : là
tinh tiến
Quảng đại Phật thừa :
nguyện tịnh tu
Chính tín chúng con :
nghe Phật dạy
Muôn đời, muôn kiếp : khó
không từ.
Trang 57-58
TỰ TẠI
Pháp giới diệu hữu đá và
hoa,
Bất biến tuỳ duyên cõi Sa
bà.
Tầm đạo tham cầu nơi chốn
lạ,
Chẳng bằng tự tại ở quê
nhà.
PHẬT CƯỜI
Bàn chuyện có-không,
Phật mỉm cười.
Đi đây đi đó, lãng du
chơi,
Khởi duyên nên vật không
thành có
Duyên hết sự sự có hoá
không
Sướng khổ buồn vui, lên rồi
xuống
Xuân tàn hạ tới, ngắm hoa
tươi
Đã về đã thấy quê hương
cũ
Hỏi tử với sinh Phật lại
cười.
Trang 59-60
BẤT NHỊ
Người về
từ chốn chẳng đi
Trụ nơi không chỗ
Vô vi tháng ngày.
Người về,
chốn chẳng chính tà.
Phật, Ma cũng vậy,
hoá ra độ người.
Ta về,
lấy cái không-Ta.
tướng Ma, tướng Phật,
rời xa huyễn hình.
Ta về,
với ánh quang-minh
Ngồi nơi tịch tĩnh
hiện hình Chân-không.
Người-Ta
Cũng chẳng gần-xa
Nhập là không một
tách là Không-Hai.
Trang 61-62
CHÙA THIÊN MỤ
Bảy tầng tháp cổ giữa
hàng cây
Chuông điểm pháp âm tiếng
vọng đầy
Thoang thoảng trầm hương
vơi tục lụy
Mơ màng danh vọng chợt
tan ngay
Bến xưa thanh tịnh đang
chờ đợi
Thuyền lạc chốn nào hãy tới
đây
Phật tích chuyển lưu
Hương giang chảy
Bóng chùa Thiên Mụ ẩn
trong mây.
Trang 63-64
12 NGUYỆN PHẬT DƯỢC SƯ
Tịnh Lưu Ly là nơi đức Phật
Dược Sư quang minh chiếu
vô biên
Có mười hai nguyện lớn,
như sau:
Nguyện thứ nhất hào quang
sáng suốt
Giúp chúng sinh không
khác Như Lai
Thứ hai thân sáng ngọc
trong
Hào quang soi khắp muôn
loài chúng sinh
Thứ ba phương tiện tuỳ
duyên
Độ cho đại chúng nguyện
tâm viên thành
Thứ tư dạy pháp đại thừa
Khiến người tà đạo theo về
chính chân
Nguyện thứ năm đắc bồ đề,
Khiến người phá giới dần
dần tịnh tâm
Tịnh Lưu Ly là nơi đức Phật
Dược Sư quang minh chiếu
vô biên
Có mười hai nguyện lớn,
như sau:
Nguyện thứ nhất hào quang
sáng suốt
Giúp chúng sinh không
khác Như Lai
Thứ hai thân sáng ngọc
trong
Hào quang soi khắp muôn
loài chúng sinh
Thứ ba phương tiện tuỳ
duyên
Độ cho đại chúng nguyện
tâm viên thành
Thứ tư dạy pháp đại thừa
Khiến người tà đạo theo về
chính chân
Nguyện thứ năm đắc bồ đề,
Khiến người phá giới dần
dần tịnh tâm
Trang 65-66
BÁC SỸ TÂM MINH LÊ ĐÌNH
THÁM
Kiến tính là Tâm Minh
Sa bà hiện độ sinh
Cùng Gia đình Phật tử
Nhập một pháp viên minh.
Trùng trùng Lý duyên khởi,
Pháp tính rời cũ-mới.
Báo ân trong muôn một,
Phương tiện, thuận dòng
khơi.
Lăng-nghiêm: pháp chính
Tông
Duy-thức: chủ nhân ông
Tam tạng: nêu chân lý
Hậu học: nguyện viên
thông.
Trang 67-68
NIẾT BÀN
Trí bát nhã sâu chẳng thể
bàn
Chân không Diệu hữu độ
nhân gian
Thuyền to phương tiện qua
bờ giác
Giải thoát chúng sanh tới
niết bàn.
Ngọc Thiền soi rạng khí
non sông
Bước đến mới hay tính thể
đồng
Suối chảy bao quanh: hình
vạn tượng
Mây vờn đỉnh núi: tướng
chân không
Âm vang Bát nhã nguồn
chân lý
Tịch tĩnh niết bàn rõ sắc
không
Thanh tịnh tu hành vô chướng
ngại
Sa Bà phương tiện nguyện
viên thông.
Trang 69-70
VỊNH CHÙA DIÊN KHÁNH
Mây trời thanh tịnh cảnh
tây phương
Diên Khánh chùa nay khí
toả hương
Cây, đá, lá, hoa: tâm tĩnh tại
Sách đèn kinh kệ: tỏ vô
thường
Bay vờn suối cạn tùng
khêu bút
Động khẽ áo tràng trúc viết
chương
Giải thoát tâm mình thôi
tục luỵ
Từ bi trí tuệ hiểu và
thương.
Trang 71-72
QUÁN NIỆM
Ảo mộng nhân sinh thấy chứa
chan
Thầy ngồi quán niệm sự lầm
than
Nơi nơi sướng khổ lên rồi
xuống
Chốn chốn ử sinh hợp với
tan
Vô minh ái thủ: nhân phiền
não
Sân si tham độc: quả cơ
hàn
Phải chăng sinh chúng đều
tu cả
Vạn thuở xuân thu chẳng
phải bàn.
CHÂN NHƯ
Cũng bởi tâm mình ít có
tu
Năng trì Kkinh Phật học
minh sư
Xa lìa chấp trước tâm vô
nhiễm
Ly dục tu thiền bỏ huyễn
hư
Phương tiện tuỳ duyên
nhân hoá độ
Thuận dòng sinh tử hạnh
bi từ
Đến đi như vậy thường
tinh tiến
Luân hồi lục đạo hóa Chân
như.
Trang 73-74
DIỆU TƯỚNG
Duyên ai thấy được Mạn đà
la
Tánh không Bát nhã hiện
thân ra
Tu hành chân thật miền
thanh tịnh
Toả sắc lưu hương khắp mọi
nhà
Mặc thế huyễn hư đầy mộng
ảo
Thân cành cội rễ vững bồn
hoa
Đỏ xanh hồng trắng đều
trân quý
Diệu tướng Chân như: Bát
đát ra!
( Bát đát ra: Từ bi cứu độ chúng sinh )
PHẬT TÂM
Phật về từ bến chân Tâm
Thậm thâm vi diệu hương
trầm toả xa
An nhiên trong cõi Sa bà
Sen hồng bảy bước gần xa
được nhờ
Trên trời dưới đất tỉnh
mơ
Bao nhiêu mộng ảo bây giờ
mới hay
Phật ngày xưa, Phật ngày
nay
Một tâm chân thật hiện
bày mười phương
Dù cho vạn pháp vô thường
Phật tâm mãi mãi miên trường
thời gian.
Trang 75-76
Giác ngộ khi xưa cội Bồ Đề,
Thế tôn tỏ rõ đường về
Chân như.
Chúng con giờ cứ huyễn
hư,
Đuổi hình bắt bóng cũng từ
tâm mê.
Nơi xa con đã trở về,
Nơi đây cõi Phật bồ đề
tâm linh.
Đạo tràng vang vọng lời
kinh,
Xóa trong con những ngục
hình thế gian.
Ngày xưa sinh tử gian
nan,
Ngày nay ơn Phật niết bàn
nguyện tu.
Trang 77-78
VỀ-ĐI
Đi tìm,
giọt nước viễn khơi
Bỏ rơi nguồn cội ở nơi
ban đầu.
Về tìm,
quá khứ nơi đâu?
Chân chim lưu dấu trên đầu
đó thôi
Về-đi!,
dừng những gọi mời
Chân tâm vô trụ nói lời
vô ngôn.
TÂM GÌ
Tâm gì?
Chẳng có ồn ào
Chẳng cơn sóng dậy,
chẳng gào thét chi.
Tâm gì?
Là lý Vô vi
Là cơn gió nhẹ,
xoá đi huyễn tình.
Tâm gì?
Chẳng đục, chẳng trong
Không đi không đến,
thoát vòng tử sinh.
Tâm gì?
Vô tướng, tuệ quang
Chẳng sinh chẳng diệt
Tùy duyên, hóa thành.
Tâm gì?
Thật tướng vẹn toàn
Sướng vui cũng mặc
Chẳng cần lợi danh.
Tâm gì?
Vạn vật hóa thành
Như như vô ngại,
Thể là Chân như.
Trang 79-80
VÔ VI
Cư sĩ, xuất gia cũng chẳng
vì
Mặc cho thế sự đấu và thi
Đồng ngài Thượng Sỹ xua
mây ám
Tiến thẳng đại thừa, dẹp mạn
nghi
Xuân hạ thu đông tâm
không đổi
Dòng đời xuôi ngược vẫn
Vô-vi
Bồ đề hạnh nguyện chưa ngừng
nghỉ
Hoá độ chẳng màng sự đến-đi.
Trang 81-82
TỊNH ĐỘ
Tịnh độ tự tâm thành
Đạo tràng chốn tịnh thanh
Tu hành từng bước một
Tích tụ biển sẽ thành.
XUÂN VỀ
Chẳng phải xuân về mới trổ
hoa,
Cũng từ xuân đến, tết nhà
nhà.
Tình người tính cảnh, đâu
phân biệt,
Đời đạo một nhà, không
tách xa.
Mùa hạ hoa tàn, xuân lại
nở,
Mê mờ trí tuệ, học thông
ra.
Phải chăng xuân hạ vòng
xoay ấy,
Tỉnh thức đêm ngày mới
chính ta.
Trang 83-84
MỤC LỤC