Thứ Tư, 30 tháng 11, 2011

Phong Thái Thiền Tông

 
"Ở đời vui đạo hãy tùy duyên
Đói ăn, khát uống, mệt nghỉ liền
Trong nhà có báu thôi tìm kiếm
Đối cảnh vô tâm chớ hỏi Thiền."
                                                                   (Sơ Tổ Trúc Lâm Đại Đầu Đà - Trần Nhân Tông)

       Bài Cư trần lạc Đạo của ngài Điều Ngự Giác Hoàng Sơ Tổ phái Thiền Trúc Lâm nói lên gia phong, cốt cách Thiền của Ngài.
       Có một vị Tăng hỏi ngài:
              Gia phong Hòa thượng thế nào?.
       Ngài đáp:  
"Áo rách che mây, sáng ăn cháo, Bình xưa tưới nguyệt, tối uống trà."
Thật sâu sắc! Mặt trời lên cao, những gợn mây trôi lững lờ chỗ dày chỗ trống lỗ chỗ giống như ta mặc chiếc áo rách. Thật hay vì như thế Ta với Trời không khác. Mặc áo rách, sáng ăn cháo chiều tưới hoa và tối uống trà. Vậy là đúng với câu " Bình thường tâm thị Đạo", nghĩa là trong tất cả sự ăn mặc, lao động, uống trà, chư Tổ Trúc Lâm vẫn giữ tâm bình thường, đó là gia phong của ngài.
Theo Lục Tổ Đàn Kinh, chuyện về Thiền sư Bạch Vân Thủ Đoan là vị Tăng nhân phái Dương Kỳ Tông Lâm Tế đời Tống nói với các đệ tử rằng: "Phật Thích Ca có tứ hoằng thệ nguyện là : Chúng sinh Vô lượng thề nguyện độ, Phiền não vô tận thề nguyện đoạn, Phật học vô lượng thề nguyện học, Phật Đạo vô thượng thề nguyện thành. Nay ta cũng có tứ hoằng thệ nguyện. Đó là : Đói thì phải ăn cơm, rét thì mặc ấm, lúc mệt thì duỗi chân ngủ, lúc nóng thì hóng gió mát." Điều này nói về quan điểm tu hành của Thiền Tông. Thiền tông không nhấn mạnh phương thức tu hành mà nhấn mạnh tới thực chất của việc tu hành. Mục đích tu hành của Thiền tông là muốn kẻ tu hành phải quay về với ý nghĩa trọng yếu của tự tính, mà phương thức tu hành là không nên câu nệ vào việc ngồi thiền đọc kinh giản đơn. Cho nên những hoạt động trong cuộc sống thường ngày chính là phương thức tu hành tốt nhất.
    Khái niệm "Kiến tính thành Phật" của Thiền tông cho rằng Phật không phải là một thứ lý luận hay học thuyết mà là một thứ trạng thái của tâm tính, nếu như kẻ tu hành có thể kiến chứng được tự tính thanh tịnh, thì có thể thành Bồ Tát, thành Phật.
   Nhân ngày Vía của ngài Điều Ngự Giác Hoàng Sơ Tổ phái Thiền Trúc Lâm, kẻ hậu học Quảng Kiến theo duyên và ý Thiền của Ngài xin đề mấy câu:

"Tùy duyên đối cảnh không đảo điên
Bỏ hết bao nhiêu nỗi ưu phiền
Ngày nay ta trụ nơi trần thế
Học Tổ Trúc Lâm một chữ Thiền."
                                      (Quảng Kiến-Nguyễn Việt Hồng)

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Trí Tuệ Bát Nhã

      Nhân ngày tôn vinh các bậc Thầy 20 tháng 11 Quảng Kiến có đề mấy câu kính tặng các Thầy của mình nay chia sẻ với bè bạn cùng chiêm nghiệm để cho sự học ngày càng rực rỡ, không phụ công ơn vô lượng của các bậc Đạo Sư. 


      Ở bốn câu kệ này Quảng Kiến nói về hai loại trí: Vô Sư Trí và Hậu đắc Trí hay Căn Bản Trí và Hữu Sư Trí. Trong các kinh điển thường hay nói đến hai loại trí tuệ này. Nói về Trí vô sư tức là nói về trí tuệ tự phát ra khi không có thầy dạy (Sư). Đức Bản Sư Thiền định 49 ngày dưới cội Bồ Đề chứng Quả vị Phật tức là đã có được Trí Vô Sư (không ai dạy mà tự tỏ ngộ). Hữu Sư Trí là trí tuệ có được sau khi đã được Thầy truyền dạy, người học trò nghiên cứu sâu xa (miên mật) các kiến thức đó để tỏ ngộ mọi vấn đề gọi là Hậu Đắc trí. Trong Kinh Duy Ma Sở Thuyết Ngài Bồ Tát Văn Thù đại diện cho Hậu Đắc Trí còn Ngài Duy Ma Cật đại diện cho Căn Bản Trí. 
      Theo Pháp môn của Đạo Phật: Tu Hạnh vô sở đắc là Nhân thì Đại Bát Nhã là Quả. Bát Nhã là trí tuệ của Phật và Bồ Tát. Câu Maha Bát Nhã trong Bát Nhã Tâm Kinh là nói đến Đại trí tuệ huyền diệu màu nhiệm cứu kính của Chư Phật.
Ngài Quán Tự Tại Bồ Tát là danh hiệu của Đức Quán Thế Âm Bồ Tát khi thực hành hạnh Trí Tuệ. Việc rèn luyện trí tuệ này có ba phần.
       1- Văn tự Bát Nhã: Là việc đọc và nghe giảng Kinh Bát Nhã
      2- Quán Chiếu Bát Nhã: Quán tức là nghiên cứu sâu xa ý nghĩa của Kinh. Chiếu là đưa các ý     nghĩa đã quán vào để soi xét bản thân diệt hết thiện ác hữu lậu thế gian, thể nhập vô lậu xuất thế gian.
       3- Thật tướng Bát Nhã: Khi đã quán chiếu nhập Vô lậu xuất thế gian thì thể nhập vào vô lậu thiện Đại Thừa của chư Phật Bồ Tát. Từng bước tu theo Đại Thừa thì nhập vào Thật tướng Đại Thừa. Thật tướng này chính là Thanh Tịnh Pháp Thân Vaira Lỳ Lô Giá Na ( Đại Nhật ).
(còn tiếp)

Thứ Tư, 16 tháng 11, 2011

Giải Oan Tự

CHÙA GIẢI OAN NƠI ĐÂY PHẬT TRỤ
(1)
Chùa báu nơi đây Phật Bà thường trụ
Giải thoát thập phương vũ trụ chúng sinh
Oan giải, giải oan bỏ hết ưu phiền
Nơi Thiền môn người người an tính thiện
Đây núi cao Chùa hiện cảnh sắc lành
Phật độ trì, chúng sinh hành nghiệp thiện
Trụ thế đưa đò, Phật trụ nơi đây.
(2)
Oan oan, giải giải, oan đâu giải
Thân Pháp không không, Thân pháp không
Không tu, Không chứng, không tu chứng
Vô thỉ Không tâm, không tu Tâm
Không Thân, Không Pháp, không Tâm trụ
Không để đưa đò nên Không trụ thế thôi.
                                                                                  
(Quảng Kiến- Tự Viên Minh)

Thứ Hai, 7 tháng 11, 2011

Phật Học - Lên Chùa Gặp Phật


      Mây trắng ơi, con đường nào ta đi? Lời bài hát trong phim Tây Du Ký đã và đang chiếu trên truyền hình qua bao thế hệ. Phim được chuyển thể từ kỳ thư của Ngô Thừa Ân với nội dung là câu chuyện thỉnh kinh của thầy trò Đường Tăng. Dùng văn để truyền tải đạo lý giải thoát của chư Phật.
          Con đường nào ta đi? Câu hỏi của Mỹ Hầu Vương, vào một ngày đẹp trời bỗng giác ngộ lẽ sinh tử của cõi đời là vô thường, lập tức từ bỏ tất cả, lặn lội chiếc thân đi tầm sư học Đạo.
          Hôm nay, ngày 19 tháng 6 khác với Mỹ Hầu Vương chưa biết đi về đâu còn Chúng Tôi đã có con đường để tới Hương Tích Tự, Ngôi Chùa tọa lạc trên đỉnh Ngàn Hống, nơi đây với cảnh đẹp xưa nay được mệnh danh là "Hoan Châu đệ nhất danh lam".
         Chúng tôi lên Chùa gặp Phật.(Thường thì tôi sẽ nói là đi Chùa lễ Phật nhưng hôm nay khẳng định với các bạn là tôi lên Chùa gặp Phật.)
          Mỹ Hầu Vương phải cực nhọc chống bè vượt biển tìm Thầy học đạo còn chúng tôi chỉ cố gắng nhẹ ga để không bị bắn tốc độ thôi (hic nhưng lúc về không được đi bằng đường Hàng không (đi mây về gió) mà vẫn chỉ đi đường bộ ). Nhân duyên đầy đủ đồng hành với tôi là cậu sinh viên năm cuối với nhiều hoài bão và thắc mắc. Sau khi gửi xe vào bãi chúng tôi gặp ngay sáu Ông xe ôm chặn đường (tưởng cướp, hóa ra là mời đi một đoạn đường đất nhằm rút ngắn thời gian leo núi ). Nhân việc này nhớ lại trong truyện Tây Du Ký thầy trò Đường Tăng trong chuyến đi thỉnh kinh cũng gặp lục tặc. Thâm ý của hồi truyện kể về sáu tên cướp chính là sáu yếu tố phá hoại tâm thanh tịnh của con người, làm cho mê mờ đi vào tà đạo, xa lìa chính đạo. Đó chính là Thất tình, Lục dục (hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục và sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp). Sáu thứ bui trần từ bên ngoài đột nhập vào tâm con người thông qua lục căn (nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt, thân, ý). Theo duy thức học, lục căn gặp lục trần sinh ra lục thức, làm cho tâm con người đối đãi thị phi theo kiểu nhị nguyên. Quay lại câu chuyện khi giáp mặt lũ cướp Tôn hành giả khẳng định vai trò của mình: “Ồ, các ngươi là sáu thằng giặc cỏ, không nhận ra người xuất gia này là chủ của các ngươi sao mà lại dám chặn đường?”. Như chúng ta đã biết con người là hình ảnh của hai cuộc đời. Không chế ngự được thì lục căn sinh lục dục (lục tặc). Nếu chế ngự được thì lục tặc trở thành lục thông là sáu món thần thông. Cụ thể như sau:
    Thiên nhãn thông: tăng khả năng nhìn của mắt, không bị trở ngại bởi khoảng cách, chướng ngại vật, thậm chí còn nhìn xuyên thời gian, nhìn thấy những sinh vật ở thế giới khác. Cơ sở khoa học của Thiên Nhãn Thông là: bình thường con người chúng ta chỉ nhìn thấy những sắc chất có quang phổ từ màu đỏ đến màu tím. Nhờ luyện tập thiền định, hoặc một phép rèn luyện tinh thần nào đó, sóng não của chúng ta mạnh lên, có thể "bắt sóng" được những sắc chất ở tần số khác, ví dụ như sóng siêu ngắn (một loại sóng có thể xuyên qua vật cản, dùng trong thông tin vũ trụ), vì vậy người đạt Thiên Nhãn Thông có sức nhìn không hạn chế.
    Thiên Nhĩ Thông: tăng khả năng nghe của tai, không bị trở ngại của ngôn ngữ, giống loài, có thể nghe được mọi âm thanh trên thế gian, hiểu được tiếng muôn loài. Cơ sở khoa học tương tự Thiên Nhãn thông.
    Tha Tâm Thông: khả năng biết được suy nghĩ của kẻ khác. Cơ sở khoa học của Tha tâm thông: bộ não con người ví như một đài thu và phát sóng, mọi tâm tư, ý nghĩ của chúng ta đều tỏa ra xung quanh dưới dạng sóng. Nhờ tu tập Thiền định, hoặc một phép luyện tinh thần nào đó, chúng ta cải thiện được sức thu của não bộ, thì khi đó ta có thể thu được sóng não của người khác và hiểu họ đang nghĩ gì.
    Thần túc thông: khả năng nhìn thấy được trăm ngàn kiếp quá khứ của mình và người khác. Cơ sở khoa học của Thần Túc thông: khoa học nhân điện ngày nay đã chụp được luồng điện trường xung quanh con người, mà trong tôn giáo gọi là "Hào quang", gồm 7 tầng, phản ánh tính cách, tình trạng sức khoẻ, suy nghĩ của người đó. Đặc biệt tầng thứ 7, nằm ở ngoài cùng, lưu giữ ký ức của người đó không chỉ từ thuở nhỏ mà từ vô lượng kiếp quá khứ. Người đạt thần túc thông có thể đọc hiểu tầng hào quang này.
    Thần cảnh thông: khả năng di chuyển không hạn chế: phi thân, di chuyển tức thời. Thậm chí còn có thể tàng hình, hiện thân to, nhỏ tùy ý. Cơ sở khoa học của Thần cảnh thông: con người vốn dĩ được tạo thành bởi vô số các tế bào. Khi luyện tập sức mạnh ý chí đến mức có thể làm chủ chính mình, làm chủ từng bộ phận trong cơ thể, thì việc làm cho cơ thể nhẹ nhàng, co nhỏ, phình lớn.. là điều hoàn toàn có thể. Nói thêm về khả năng di chuyển tức thời: khoa học ngày nay thừa nhận có sự tồn tại của chiều không gian thứ 4, người bước vào chiều không gian này có thể đi đến bất cứ đâu trong không gian 3 chiều (là nơi ta đang ở).
    Lậu tận không: khả năng làm chủ bản thân tuyệt đối, ý nghĩ được kiểm soát, không còn vọng tưởng (suy nghĩ vẫn vơ), không còn nghi ngờ, không bị nhiễm ô dù trong hoàn cảnh nào, tâm thức tĩng lặng, xóa bỏ mọi nghiệp chướng (tốt hoặc xấu). Người đạt Lậu Tận Thông sau khi chết (gọi là Viên Tịch hoặc Tịch Diệt) sẽ không còn luân hồi sinh tử, sẽ ở trong một trạng thái vô cùng trong sáng, thoải mái, mà Nhà Phật gọi là Niết bàn.

    Lậu tận thông là mục đích cuối cùng của bất cứ người xuất gia theo Đạo Phật nào. Năm thần thông kia (ngũ thông) thì quỷ (tà giáo), thần(người có phép mầu), tiên(người sống lâu), hoặc phàm phu(là chúng ta đây) chỉ cần luyện tập đều có thể đạt được. Còn bậc Thanh Văn, Bích Chi Phật, Phật Như Lai mới có Lậu Tận Thông.
          Đồng bọn với sáu tên giặc cướp trong phim Tây Du Ký là Bảy con Yêu tinh, đối với bọn yêu nõn nà này cách xử lý của Tề Thiên cũng khác hẳn: “Hành giả nghĩ: Ta mà đánh chúng cả lũ toi mạng hết, như thế đáng thương lắm” Bảy con yêu nữ có loại vũ khí rất đặc biệt mà Tề thiên nhận định về loại vũ khí này như sau: “Vật cứng còn có thể đánh đứt, thứ này mà mềm đánh chỉ lún xuống thôi. Khéo nó biết, nó quấn chặt lấy mình, lại hóa dở” Đây là sợi tơ của bảy con nhện tinh; sợi tơ nhu nhuyễn mềm mại mà khó dứt. Ý ở đây đã rõ: tơ là tơ tình, không thể dứt ngay được. Việc chế ngự cái tình cảm con người không phải chuyện dễ, vì con người ưa luyến tiếc, khoan nhượng với tình cảm bản thân.
          Thất tình và lục dục, cấu kết nhau nội công ngoại kích, là mười ba con ma phá hoại tâm thanh tịnh, gây phiền não chướng ngại cho chúng ta. Đấy là:
Thất tình lục dục sớm trừ xong
Luyện tập ngày đêm sửa tấm lòng
Khử diệt thất tình an tính thiện
Tu hành phải để chí không không
(Đại thừa chân giáo)
Trở lại nội dung câu chuyện cuối cùng lũ cướp bị lão Tôn giết cả. Đây cũng là điều mà Quảng Kiến đã lược ghi ở Hậu Học 01 rằng với người tu Phật hiếu sát hơn hiếu sinh. Sát là dẹp là diệt các niệm bất thiện khởi lên hại mình hại người cả trong lời nói ý nghĩ đến hành động.
Có đi ắt có đến. Anh em chúng tôi cũng tới đường cùng của xe ôm.Lên chùa gặp Phật phải tự thân minh đi, không nhờ ai giúp được.
Hồi sau: Đường lên chùa gặp Phật