Thứ Tư, 3 tháng 6, 2015

Thơ gửi Thầy nhân ngày kỷ niệm sáu năm Quy Y Tam bảo

Kính Thầy,
Quảng Kiến con nhớ về chốn Tổ viết rằng:
Thảnh thơi suối Yến một chiều
Nước trong cảnh tĩnh thêm yêu chùa nhà
Bao giờ rõ cái không-ta
Trời xanh hoa thắm cũng là Chân-Như.
Những khi nhớ Thầy, đệ tử cảm tới ơn giáo hoá của Người mà thường tinh tiến tu học giáo lý, để có được nhận thức đúng mà sống chính niệm trong những hoàn cảnh khác nhau. Với con, cảnh Chùa, hình bóng Thầy vẫn thường hiện rõ trong tâm trí. Ở Lào, nhà con trú sát bờ sông Mê kông, vào đêm vắng, ngồi tĩnh toạ, ngắm dòng sông trôi, quán chiếu về Chùa về Thầy mà viết:
Dong thuyền suối Yến chiều thu
Nhớ Hương Tích với Sư phụ Minh Hiền
Bao giờ lên Bát nhã thuyền
Mười phương pháp giới cũng miền Hương Thiên.

Hôm nay, kỷ niệm sáu năm, nhân duyên được Thầy thụ Tam Quy Ngũ giới. Tưởng về cuốn sách quý đầu tiên Thầy bố thí, quyển sách Bát Nhã tâm kinh. Kể từ đó, năm 2009 đến nay, hành trình học Phật pháp của con có nhiều thuận duyên, trải qua sóng gió về việc thế gian mà khoảng không gian và thời gian chính con dành cả cho việc nghiên cứu kinh điển. Hành trình sam học và tự giải đáp các khúc mắc về con đường trở về với Chân Tâm, kể ra cũng khá dài, nay con xin được giãi bày với Thầy bằng bài thơ ngắn "Bến Chân Tâm":
Tìm em ở bến Chân Tâm
Dong thuyền Bát-Nhã âm thầm Anh qua
Duy-thức tướng sóng gần xa
Lăng-nghiêm đại định, bao la đất trời
Pháp-hoa một đoá sen tươi
Ngời trong ánh mắt mười phương Ta bà
Chính tà một thể Duy-Ma
Rời xa vọng tưởng, Lăng-già truyền trao
Tĩnh tịch mặc kệ trần xao
Thấy em vẫn đó, chưa bao giờ rời.
Ngoài quyển Bát Nhã Tâm Kinh, bộ sách Luận đại trí độ Thầy đề tặng đệ tử, là những quyển sách con thường đọc tụng. Trải qua khoảng thời gian tịnh tâm ở Paske Lào, vào ngày thành đạo của Bồ Tát Quán Thế Âm, con đã viết bài " Mẹ Bát Nhã" cúng dường Tam Bảo, cúng dường Bồ Tát, hồi hướng tới ơn đức hoá độ của Thầy:

Mẹ từ tự tính sinh ra
Nuôi con khôn lớn dạy xa não phiền
Nơi võng ru tới mọi miền
Nương nhân duyên khởi tu thiền quán Không

Mẹ là giọt nước lành trong
Xoá tan hư huyễn thong dong đi về
Mười phương cũng một miền quê
Làm duyên khai ngộ giác mê cho người

Mẹ là một đoá hoa tươi
Điểm tô chân lý ở nơi hồng trần
Vì chúng sinh hiển pháp thân
Từ Bi Hỷ Xả thập phần viên thông

Muôn kiếp mẹ vẫn dõi trông
Giúp đàn con nhỏ thoát vòng tử sinh
Người là Bát Nhã Tâm Kinh
Dìu con từng bước tiến trình khai Tâm.

Bạch Thầy, theo sự nhận biết sơ cơ của Quảng Kiến thì việc nương vào thật tướng Bát Nhã để sống đời tự tại, dựa vào Bát Nhã trí mà thể nhập cảnh giới Vô sinh. Không tạo duyên sinh thì cũng đồng thời cắt đứt cái duyên diệt, dần thể với Nhất Như là tính bất sinh bất diệt. Cũng là việc nhập một với Tự Tính thanh tịnh tâm. Tự Tâm là nơi khởi nguồn Bát Nhã. Chuyển mê thành Ngộ là dụng của chính trí... Để từ đó có đủ phương tiện, đại nguyện, đại lực...mà thành tựu thập Ba la mật...thị hiện thành Phật. Từ sự chiêm nghiệm về tự tính như vậy mới thấy rõ cảnh giới thật chứng vốn lìa văn tự, rời ngôn thuyết, gượng mô tả Quảng Kiến mạo muội viết bài "Tự Tính" như sau:
Tự tính chỉ là tự tính thôi
Tính đi tính lại, tính luân hồi
Tuỳ duyên ảnh hiện mà Không- tính
Tự tính thế nào?... Tư tính coi?!
Việc thể nhập và sống đời hiện tại theo Tự-tính với Quảng Kiến giờ là sự sắp xếp lại duyên sinh. Kinh Thủ Lăng Nghiêm Phật thuyết dụ về việc cởi nút khăn: "lý thì từ tâm mà thông tỏ, sự phải theo thứ lớp mà trừ"...
Bạch Thầy, quá trình trải nghiệm tâm linh với con thật sự là vi diệu. Có rất nhiều lần, sau khoảng thời gian tịnh tâm chiêm nghiệm, đến lúc thông tỏ được khái niệm ngày đêm suy tư, con đạt được cảm giác rất kỳ lạ, đó là trạng thái đặc biệt, thường kéo dài từ một đến hai tuần.
Như sau khi chiêm nghiệm về pháp giới để phá khái niệm, con viết:
Phiền não đây rồi ,giải thoát thôi!
Kiếm tìm chi nữa để luân hồi
Xuống lên, sinh tử là quan niệm
Ôi! Tử với sinh vết "nhọ nồi"!!!
...
Khoảng thời gian như vậy trí tuệ con rất tốt, mọi việc đến đi khá tự tại với tâm vô cầu. Thật an lạc Thầy ạ.  Những lúc như vậy, nhìn sự gì vật gì con cũng có thể quán chiếu đến giáo pháp và làm thơ dễ dàng. Một bài thơ gần nhất của con được viết trong trạng thái tâm thức như vậy, thời gian sau đọc lại con nhận thấy mình chưa được hoàn toàn nên tạm đặt cho bài thơ tên là " Đại vọng ngữ":
Tìm kiếm lâu nay đã thấy rồi
Có-không sinh-tử sẽ ngừng thôi
Tài-danh sướng-khổ đà rơi hết
Sáng tối đêm ngày niệm chẳng trôi
Như-huyến viễn-ly là thật tướng
Ma ha Bát nhã hiển tính rồi
Từ nay tự tại và vô ngại
Xêp lại duyên sinh trải toạ ngồi.

Nội dung bài thơ chủ yếu là cái thấy của con từ giáo lý, chứ chưa có hằng sống được như vậy nên là " đại vọng ngữ ". Duy có câu cuối " xếp lại duyên sinh trải toạ ngồi" là cái thấy sâu sắc của con về thực tại hiện sinh. Để được tự tại và vô ngại thì cần nhập thế sống đời như là sự sắp xếp các nhân duyên để tránh tạo nghiệp ( vô sinh) và tự tại đón nhận để hoá giải ( pháp nhẫn) các biệt nghiệp đã tạo ra từ trước...
Là người Phật tử tu tại gia, Quảng Kiến con thường để tâm nghiên cứu nhiều về kinh Thắng Man và kinh Duy Ma Cật, nhằm có được nhận thức sâu sắc về hành Bồ Tát đạo, tu Bồ tát hành để thành Bồ đề quả.
Vào pháp môn Bất-nhị là nhận thức Người và Ta vốn không hai, không khác. Đó là:
Người về
từ chốn chẳng đi
Trụ nơi không chỗ
Vô vi tháng ngày.
Người về,
chốn chẳng chính tà.
Phật, Ma cũng vậy,
hoá ra độ người.
Ta về,
lấy cái không-Ta.
Tướng Ma tướng Phật,
rời xa huyễn hình.
Ta về,
với ánh Quang-Minh
Ngồi nơi tịch tĩnh
hiện hình Chân-Không.
Người-Ta
Cũng chẳng gần-xa
Nhập là không một
tách là Không-Hai.

Về Tự tính thanh tịnh Tâm theo Kinh Thủ Lăng Nghiêm với sự hiểu của con là phá ngũ ấm ma, rời vọng tưởng, tỏ được tính Diệu-Minh, bàn về ngũ ấm con viết:
SẮC ẤM
Bất giác khởi nên hình
Sắc ấm từ tâm sinh
Luyến lưu cùng thức vọng
Chẳng thấy tính Diệu-Minh.
THỌ ẤM
Theo vọng ấy chúng sinh
Giác tâm theo thật lý
Vạn vật chẳng hợp ly
Bồ Đề thường tịch tĩnh.
TƯỞNG ẤM
Bóng kia bởi có hình
Chẳng diệt với chẳng sinh
Bọt nước thì cũng vậy
Lay động mới nên hình.
HÀNH ẤM
Bởi thấy Giác làm Minh
Nên hình thành Năng- Sở
Sáu căn thường trăn trở
Ngăn ngại tự tâm mình.
THỨC ẤM
Luyến lưu tình với cảnh
Đâu rồi cái Minh - Anh
Huyễn hư là không thật
Pháp giới Tính-Diệu thành.

Phá NGŨ ẤM ma:
Sáu căn tuỳ dụng công
Phát khởi tính viên thông
Ngoài tri và ngoài trí
Rõ mây nước vẫn đồng.

Trên đây là một số thấy biết của con trong khoảng thời gian vừa qua, Phật pháp vốn thậm thâm. Cần trải nghiệm và tu trì nhiều đời nhiều kiếp, sức và trí của con còn non yếu. Nay biên thư gửi Thầy, xin được bày tỏ và ngưỡng mong trên những chặng đường sắp tới được Thầy chỉ bảo thêm cho. Quảng Kiến con nguyện tinh tiến, không còn thối chuyển trên con đường tu Đạo vô thượng.
Sáu năm tu Phật không dài nhưng cũng chẳng ngắn. Vì nhiều nhân duyên: ĐÃ-ĐANG-ĐỂ, nay Quảng Kiến con tạm tổng kết, làm mốc quy chiếu mà tiến lên. Kính trình Thầy bài thơ và xin được tạm kết:
(ĐÃ)...
Sáu năm tu Phật chưa ngừng nghỉ
Chẳng có chi khoe, nỏ muốn gì
(ĐANG)...
Tu Mật, tham Thiền, hành Tịnh độ
Quán-Chân, ly-vọng: hướng Vô vi
Hoa Nghiêm, Bát Nhã, Lăng Nghiêm... học
Ngũ ấm giai không, Ngũ-Trí trì
Vô-hữu, diệt-sinh...giờ khái niệm!
Từ Bi Hỷ Xả...hạnh đang vì.
(ĐỂ)...
"Vô tận không thời vô tận ý
Thị chưa từng bận huống gì phi.

Cuối thư, nguyện cầu Tam Bảo gia hộ Thầy vạn sự thường được khinh an, mãi là cội Bồ Đề để hàng đệ tử chúng con làm nơi nương tựa, noi theo đức hạnh của Thầy trong suốt tiến trình tu để chứng.
Kính thư,


Đệ tử Quảng Kiến Nguyễn Việt Hồng.