Thứ Hai, 5 tháng 1, 2015

Thư gửi anh Trai

Gửi Anh trai:
...Anh là người có tâm hướng Đại thừa, về mặt thế gian lại có một số điểm mạnh hỗ trợ điểm yếu của em, với khả năng và kinh nghiệm 10 năm doanh nghiệp, em sẽ cùng anh xây dựng sự nghiệp bền vững, cũng là để thực nghiệm pháp thế gian và có thời gian tu tập là tự lợi và thực hành hạnh Bồ Tát đạo làm các việc lợi tha giúp người. Đức Phật có nói tăng đoàn phải từ hai người trở lên, cùng tu và hỗ trợ nhau trong sinh hoạt cuộc sống mới có thể sớm thành tựu đạo nghiệp. Ví dụ rõ ràng ở tình huynh đệ giữa ngài Xá lợi Phất và ngài Mục Kiền Liên, xa hơn nữa là Phật A di đà và Phật Dược Sư, Phật Thích Ca và Phật Di Lặc…

Em biết khả năng "tạo sóng" rất lớn của anh. Em nói sóng là nói theo cảnh giới của kinh Lăng Nghiêm, “mọi sự đều do sóng tâm tạo thành”. Anh có cách để làm cho người khác liên kêt tụ hội, cũng như sóng giúp cho đất bồi, nhưng sóng đôi khi cũng phá vỡ những thứ kém bền vững. Cùng tạo dựng sự nghiệp với anh, em sẽ làm tốt yếu tố nhu nhuần tạo xúc tác làm cho sự liên kết yếu đó được bền vững trong giai đoạn khó khăn ban đầu. Song song với nhiệm vụ đó em có thêm sự hỗ trợ của anh để có không gian và thời gian tu học.

Như anh nói, chúng ta chưa có Thầy trực tiếp chỉ dạy nên phải học qua sách vở. Em đọc trước hay anh đọc đều có lợi ích cho nhau. Bởi con đường của ta chính là chuỗi đời sống vô tận, đời này chỉ là một bước ngắn mà thôi. Song song với công việc anh em ta cùng trao đổi giáo lý và đem ra ứng dụng để lợi mình lợi người. Anh vẫn hay thích khái niệm thần thông, em cũng vậy, nhưng có câu "thần-thông không bằng thần-diệu" nghĩa là cuộc sống dù gian nan đến đâu, mặc dù phải tìm mọi cách để tồn tại phát triển nhưng ta cố gắng không để cho bất cứ ai phải phiền lòng về đạo đức lối sống của mình, được như vậy mới là tuyệt-diệu, còn khi giàu có về tiền của và có thế lực thì không nói làm gì. Tổ Lâm Tế có nói kệ: …kẻ thần thông không bằng người tầm thường mà VÔ-Sự… vì những điều này nên từ giờ anh em ta cũng hết sức cẩn trọng trong lời ăn tiếng nói, mười mình chỉ nên nói một để có được cách “ thâm tàng bất lộ”, mình nói ra để lấy lòng người nhưng có khi họ chưa hiểu lại đánh giá mình là “nổ” quá thì lợi bất cập hại. Việc tỏ ra lợi hại hơn người cũng chưa hẳn tốt, họ sẽ kỳ vọng nhiều dẫn đến thất vọng lớn. Có người đưa ra câu chuyện lãnh đạo của Đường Tăng với Tôn Ngộ Không, Trư Bát giới, Sa Tăng: xét về tài phép thì Tôn Ngộ Không vượt trội nhưng vẫn phải theo hầu Đường Tăng, các đệ tử khác cũng là tài phép hơn hẳn. Vấn đề đặt ra với người lãnh đạo cũng vậy. Quan trọng là tập hợp được người tài giỏi hơn mình. Để tụ hội và sử dụng hết năng lực của họ. Cốt yếu của sự quy tụ những người tài giỏi hơn thì chúng ta phải có cái tâm bao dung, trong công việc và cuộc sống chúng ta hằng giữ lễ với người. Lưu Bị ba lần cầu Khổng Minh, mặc dù là phận chủ tới nhưng lại thờ Khổng Minh như thầy, cũng là công nghệ lãnh đạo giống nhau đó mà Đường Tăng vượt qua chướng ngại thành tựu đạo quả, Lưu Bị lập nên đế nghiệp…Công nghệ lãnh đạo của Đường Tăng chính là niềm tin bất thối chuyển về con đường giải thoát tối  hậu. Thần thông vẫy vùng loăng quăng của Tôn Ngộ Không chính là tài trí thế gian cũng không qua được bàn tay của Phật Tổ, hay nói đúng ra là huyễn hư không thể nào vượt qua sự thật. Đó thể hiện bản chất của Pháp thế gian và pháp Xuất thế gian. Nghĩa là thế gian pháp chỉ là để hỗ trợ cho xuất thế gian.

Dù là thế gian hay xuất thế gian, xưa chư Tổ vẫn thường dạy bảo, với người Phật tử là " DUY TUỆ THỊ NGHIỆP", có nghĩa sự nghiệp chính của người Phật tử là phát triển Tuệ-Giác. Khái niệm tương tự là khái niệm Đa-văn. Đa văn khác với Tuệ-giác. Đa văn là học hỏi và hiểu biết nhiều điều, nhiều chuyện. Tuệ giác là nhận thức được thực tại. Người có tuệ giác chắc chắn sẽ đa văn nhưng kẻ đa văn chưa chắc đã có tuệ giác. Kinh Phật dạy nếu người có tuệ giác thì sống trong chông gai lửa đạn cũng an lạc như trong chăn ấm gối êm vậy. Bởi có tuệ giác thì nhận rõ được và sống với thực tại chân thật chứ không phải vọng danh vọng vật, vọng sắc vọng tài. Cái vị giác ngộ này có được do từ lối sống với tâm Vô-ngại, pháp môn giải thoát đó có tên gọi Bất ngại Tính Không Bát Nhã.

Kinh 42 chương có đoạn: cúng dường cho 1000 người ác không bằng cúng cho một người thiện…cúng cho 1 vạn người thiện không bằng cúng cho một người tu đạo…cúng dường cho Tam thế Phật không bằng cúng cho một vị Vô trí, Vô tu, Vô chứng, Vô đắc.” Khái niệm Vô-Trí rất quan trọng trong học Phật. Chúng sinh vô minh nhiều nên có lắm nỗi khổ niềm đau, tu đạo là để nhận thức đúng với thực tại mà xoay chuyển mê lầm, gọi là việc xoá vô minh. Như vậy cái trí lớn có đó chẳng qua chỉ để diệt trừ vô minh nhiều mà thôi. Kinh Bát Nhã có dạy: “bởi còn vô minh nên phải tạm thời dùng trí, vô minh hết thì trí cũng chẳng cần”. Nghĩa là hết vô minh thì đắc Vô trí, vậy cho nên người có trí thế gian nhiều thì chẳng qua là vô minh lắm. Xưa nay vì tham danh để được người tung hô, muốn đứng lên đầu kẻ khác để được phục dịch mà người ta tìm mọi cách để luồn lách hại người…đỡ hơn tí là học mánh khoé, kỹ nghệ để thăng tiến. Nên thương cho những kiểu người như vậy vì họ chưa đủ nhân duyên để tu Pháp niệm Phật, không thấy được sự an lạc đích thực của chuỗi đời sống vô tận. Mãi rong ruổi với tâm phân biệt, cho là người khác phải phục tùng mình mà quên đi vạn pháp vốn bình đẳng vốn đồng thể tính.

Em thường xuyên quán niệm như vậy nên càng ngày em càng ít nói, chỉ tuỳ duyên mà dãi bày, lại cũng không cho mình hơn ai điều gì, như thế em thấy ít rắc rối hơn và cũng là có nhiều thời gian hơn cho sự nghiệp “duy-tuệ” của mình. Lại không cho là mình có trí hơn người, bởi theo lập luận trên thì chẳng khác gì mình khoe cái vô minh nhiều. Hôm ở Cambodia anh mới nói với em là giờ anh không thích uống rượu nữa, đó cũng là bởi tu vị của anh đã tăng tiến. Nghĩa là ở cảnh giới khác, địa khác thì tư tưởng thanh cao hơn, nhu cầu ham muốn sẽ khác hẳn.

Đức Phật dạy rất rõ ràng, có ba tiệm thứ tu đạo Bồ Tát, tiệm thứ đầu tiên mặc dù chưa ăn trường chay nhưng tuyệt nhiên phải bỏ bốn thứ rau cay. Nếu không như Kinh Thủ Lăng Nghiêm Như Lai mật nhân tu chứng liễu nghĩa đã dạy: dù có thông 12 bộ kinh thì cũng chỉ như lấy cát nấu cơm, mãi mãi không thể thành tựu được. Tiệm thứ tu hành thứ hai là tu pháp Vô-Ngã, vô ngã là rời Ngã sở. Có bốn tướng bệnh của Ngã gồm: Ngã tướng, Nhân tướng, Chúng sinh tướng, Thọ giả tướng.

1-   Ngã tướng là chấp cái tôi được khen, chê, yêu, ghét
              2-   Nhân tướng là chấp thân mình, vật từ mình hơn người
              3-   Chúng sinh tướng là chấp cái thân người khác thua kém mình, vật của người khác không quý bằng vật mình
             4-   Thọ giả tướng là chấp cái ta biết hơn hẳn và khác với cái biết của người.

Tiệm thứ tu hành thứ ba là tu Pháp Bất Nhị, điển hình hành đạo theo pháp môn Bất nhị là Ngài Duy Ma Cật. Con đường tu Bồ tát đạo này chính là con đường từ phát Bồ đề Tâm, tu Bồ tát đạo, hành Bồ tát hành và thành Bồ để quả. Trong Luận Đại Trí Độ, Bồ tát Long Thọ đã nêu ra 5 giai đoạn tu chứng của Bồ Tát đạo cho 53 quả vị Bồ tát từ quả vị sơ phát tâm đến quả vị Diệu Giác Bồ tát thứ 52 và Quả vị Viên Giác Bồ tát thứ 53 là thị hiện thành Phật. Năm giai đoạn tu chứng Bồ tát đạo như sau:

1.   Giai đoạn phát Bồ đề tâm: là giai đoạn người học đạo nguyện vì chúng sinh mà thành tựu. Kinh Duy Ma Cật thuyết rằng: “sự nghiệp của Bồ tát chính là thành tựu chúng sinh”. Bồ đề tâm nguyện là phát tâm tha thiết cầu thành Phật đạo có đủ thập Ba la mật để hoá độ chúng sinh. Cái bản tâm không có thối chuyển đó chính là Bồ đề tâm. Bồ đề tâm ở giai đoạn này mới là hình ảnh ước nguyện chứ chưa phải là Tâm Bồ Đề chân thật.

2.   Giai đoạn Phục tâm Bồ đề: giai đoạn này tu pháp, niệm Phật hàng phục phiền não và khởi động tu theo Lục độ Ba la Mật.

3.   Giai đoạn Minh Tâm Bồ đề: là giai đoạn phân tích sâu về Tổng tướng và Biệt tướng của vạn pháp, hành Lục độ Ba la Mật và nhận rõ được tính thanh tịnh của vạn pháp.

4.   Giai đoạn Xuất đáo Bồ đề: Thành tựu Lục độ ba la mật

5.   Giai đoạn nhập Vô thượng Bồ đề: Đắc nhất thiết chủng trí.

Như vậy, con đường tu Bồ Tát đạo là con đường dài vô tận để hoá độ chúng sinh và nhất thiết vì lợi ích chúng sinh. Rời tâm phân biệt mà tự lợi lợi tha, tự giác giác tha, đó là chặng đường không mệt mỏi hành Tứ-vô-lượng-tâm. Từ, bi, hỷ, xả là tứ vô lượng Tâm, đây là bốn cánh cửa để vào Bồ đề quả. Từ là ban vui, Bi là cứu khổ, Hỷ là vui mừng, Xả là rời phân biệt.

         Pháp tu Bồ tát đạo có nhiều song để viên mãn Bồ đề quả lại chính là tu hành theo thập hạnh Phổ Hiền, Bồ đề quả là công đức thù thắng của chư Phật. Bồ tát Phổ Hiền trong phẩm Phổ hiền hạnh nguyện sau khi khen ngợi công đức thù thắng của đức Như Lai, bèn nói với chư vị Bồ-tát và Thiện Tài đồng tử rằng: Này thiện nam tử, Công đức của đức Như Lai, giả sử tất cả các đức Phật ở mười phương, trải qua số kiếp nhiều như vi trần, ở các cõi Phật nhiều không thể nói hết, diễn nói không ngừng về công đức ấy, cũng không thể nào nói hết được. Nếu muốn thành tựu được công đức ấy, cần phải tu tập mười hạnh nguyện rộng lớn. Mười hạnh nguyện ấy là gì?:

1-   Nhất giả lễ kính chư Phật

2-   Nhị giả xưng tán Như Lai

3-   Tam giả Quảng tu cúng dường

4-   Tứ giả Sám hối nghiệp chướng

5-   Ngũ giả tuỳ hỷ công đức

6-   Lục giả thỉnh chuyển pháp luân

7-   Thất giả thỉnh Phật trụ thế

8-   Bát giả thường tuỳ học Phật

9-   Cửu giả hoằng thuận chúng sinh

10-        Thập giả phổ giai hồi hướng

Trong các pho kinh Đại Thừa Phật thuyết, căn cốt vẫn là hành theo Thập nguyện vương này của Bồ tát Phổ Hiền. Con đường nhận thức đúng và hành động đúng về Bồ Tát đạo anh em ta còn phải đàm luận và sam học nhiều để sớm có được tâm vô ngại mà hành thiện nghiệp, dầ dnần thành tựu vô lượng công đức thiện vô lậu, làm tư lương cho các đời sống kế tiếp trong chuỗi đời sống tiến đến quả vị toàn giác...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét