Thứ Tư, 9 tháng 1, 2013

LUÂN XA !!!



Sự thật về luân xa?
Trước khi đức Phật Thích Ca thuyết pháp ở Ấn độ, có nhiều phái ngoại đạo xuất hiện. Trong đó là ngoại đạo Bà la môn nói về ba ngôi thượng đế: Đại phạm thiên vương (Bratma), Tự tại thiên vương (Vichnu), Đại tự tại thiên vương (Shiva). Theo giáo phái Ríc vê đa nói về kinh Vê đa (Phệ đà) của đạo Bà la môn thì ba ngôi thượng đế này có Bratma là đấng sáng tạo, Vichnu là đấng trưởng thành, Shiva là đấng hủy diệt. Đó là cái thuyết hữu thủy nguyên nhân đầu tiên là Bratma, và thuyết hữu Chung nguyên nhân sau cùng.
Đến đời đức Phật có phái thờ thần lửa gọi là thờ thần Vi đà và phái định mệnh Ni-kiền-tử (Nicanđa) là một trong sáu phái lục sư ngoại đạo.
Phái thờ thần lửa Vi-đà khởi đầu cho việc khai mở luân xa. Phái này nói có một con rắn lửa gọi là Kun-đa-li-ni ở huyệt trường cường đầu xương cụt là đốt xương sống đầu tiên ở hậu môn. Luyện tập hít thở để làm cho con rắn lửa này đi lên theo xương sống lên đến óc gọi là hỏa hầu quy nguyên ( Lên óc gọi là quy nguyên) Trong quá trình này thì có 7 trung tâm ở phía mặt trước người là nơi tập trung khí đưa ra huyệt trường cường để kích động con rắn lửa này lên óc thì sẽ gọi là đắc lục thông.
Mỗi một huyệt của 7 huyệt tiêu biểu cho 7 luân xa. Mỗi một luân xa có hình như một hoa sen có nhiều cánh như sau:
1.    Huyệt Hội âm là điểm giữa khoảng cách từ bộ máy sinh dục đến hậu môn. Hít thở kích thích khí vào đó thì có thần thông có thể bay lên cao gọi là thần túc thông. Đây là luân xa số 1.
2.    Huyệt Khí hải ở trên huyệt hội âm nằm giữa đường khoảng cách bằng hai đốt ngón tay giữa của từng người từ rốn đến dưới rốn. Đây là luân xa số 2. Khi thành công khích thích khí vào thì có thần thông gọi là túc mạng thông: Biết được kiếp trước của mình và của người khác
3.    Huyệt đản trung ở cơ hoành giữa bụng và ngực theo chiều ngang và chiều dọc ở giữa hai vú. Giao điểm của hai đường ngang dọc này là huyệt Đản trung. Đây là luân xa số 3. Kích thích khí vào luân xa này thì có thiên nhĩ thông nghe được âm thanh xa.
4.    Huyệt thiên đột ở hõm cổ. Đây là luân xa số 4. Kích thích khí vào luân xa này thì có tha tâm thông biết được ý nghĩ của người khác.
5.    Huyệt Ấn đường. Ở giữa hai lông mày và giữa sống mũi. Giao điểm của hai đường ngang dọc này là luân xa số 5. Kích thích khí vào huyệt này thì có thiên nhỡn thông mắt nhìn được rất xa.
6.    Huyệt Cự Khuyết ở giữa rốn là luân xa số 6 cũng có tác dụng hỗ trợ cho huyệt hội âm làm tăng thêm khả năng của thần túc thông.
7.    Huyệt Bách Hội giữa đỉnh đầu là giao điểm đường dọc từ sống mũi lên, đường ngang từ hai đầu tai lên. Huyệt này Đạo Bà la môn gọi là bông hoa sen nghìn cánh. Kích thích khí đưa lên huyệt này thì gọi là đắc đạo thành thần sinh lên các cõi trời của ba ngôi thượng đế trên.
Khi đức Phật thuyết pháp có nhiều người theo đạo bà la môn quy y Phật. Các lý do này đối với từng người như sau: Hai ông A-la-la và Ất-đâu-ram-pu đầu tiên tu theo phép này nhưng vì chấp rỗng không nên lạc vào định của 4 cõi trời vô sắc giới. Các ông Xá-lợi-Phất, Mục-kiền-liên, Tu-bồ-đề, Ca-chiên-diên. Nghe đức Phật giảng về cái thân bất tịnh trong tứ niệm xứ giác ngộ ngay các luân xa là giả dối. Sau đó tu theo tứ diệu đế và đều đắc quả A-la-Hán. Ông Maha Ca-Diếp là người tu theo đạo thần lửa Vi-đà cũng giác ngộ tứ niệm xứ sau đó tu theo pháp môn Viên thông Ý Thức thành Tổ sư đệ nhất Thiền tông ấn độ. Sau này đến đời 28 là Đạt Ma tổ sư. Thiền Tông chủ yếu lấy Kinh đại Bát nhã là biệt giáo Đại thừa làm căn bản.
Các luân xa này thực chất ứng với mạch khí dương ấm ở xương sống và mạch khí âm mát ở trước mặt. Sự thực có 12 huyệt đạo tương ứng với 12 giờ từ tí đến hợi theo ấn độ là từ cung tỳ la ( thái ất) là giờ tý, phạt chiết la ( thiên Cương) giờ Sửu,…cho đến cuối cùng là tỳ yết la ( thái Sung) là giờ hợi nhưng quy theo quẻ kép chu dịch có ý nghĩa cụ thể như sau:
1.    Giờ Tý huyệt trường cường đầu xương sống gần hậu môn là quẻ Địa Lôi Phục. Quẻ này khí dương mới phục hồi nên còn non yếu. Nếu ăn uống bừa bãi dễ sinh bệnh vì hóa thành cách họa hại.
2.    Giờ Sửu huyệt Thận Du ở xương sống đối xứng với huyệt Khí hải ở trước. Huyệt này là quẻ Địa Trạch Lâm: Khí dương bắt đầu mạnh lên nếu ăn uống đúng cách thì là cách thiên Y là cơ bản cho sức khỏe.
3.    Giờ Dần Huyệt mệnh môn ở xương sống đối xứng với rốn ở phía trước. Huyệt này là qủe Địa Thiên Thái là quẻ Diên Niên nếu ăn uống đúng cách sức khỏe ổn định.
4.    Giờ Mão Huyệt Thần khuyết ở xương sống đối xứng với huyệt đản trung ở giữa ngực phía trước. Huyệt này là quẻ Lôi thiên Đại Tráng. Ăn uống đúng cách là sức khỏe đến mức đỉnh cao trong đời người.
5.    Giờ Thìn Huyệt ở đầu đốt xương sống đầu tiên gần gáy cổ. Đây là quẻ Trạch Thiên Quải. Quẻ này có tính cách quyết định cho tuổi thọ cao thấp. Ăn uống đúng cách tuổi thọ cao vì là quẻ sinh khí.
6.    Giờ Tỵ Huyệt Á môn ở hõm gáy sau đầu đây là quẻ Bát thuần Càn có cách quyết định cho số mệnh. Nếu ăn uống sai cách dễ bị tai họa là mắc các bệnh mù điếc câm ngọng
7.    Giờ Ngọ Huyệt Bách hội giữa đỉnh đầu quẻ Thiên Phong Cấu. Nếu là ăn uống sai cách sẽ bị điên cuồng vì huyệt này là quẻ họa hại có năm hào dương nhưng hào 1 cuối cùng lại là hào âm.
8.    Giờ Mùi Huyệt thiên đột hõm cổ là quẻ Thiên Sơn Độn. Quẻ này là cách thiên y nếu ăn uống đúng cách. Nếu ăn uống sai cũng hóa thành người điên cuồng như nghĩa chữ độn là chạy trốn và ẩn nấp.
9.    Giờ Thân huyệt Đản Trung giữa ngực, Huyệt này ứng với quẻ Thiên Địa Bĩ. Ăn uống sai cách thì sẽ có nhiều sự si mê bế tắc trong đời gọi là Bĩ. Ăn uống đúng cách thì còn có duyên tốt trong tương lai nên gọi là Diên Niên.
10.        Giờ Dậu là huyệt Cự khuyết huyệt này ứng với quẻ phong địa quán ( ở giữa rốn). Quẻ này là quẻ ngũ quỷ ăn uống sai cách sẽ bị năm loại quỷ Kim thủy mộc hỏa thổ ám nhập gây thành tai họa cho người luyện tập.
11.        Giờ Tuất là huyệt Khí Hải dưới rốn hai đốt ngón tay giữa. Huyệt này ứng với quẻ Sơn Địa Bác. Ăn uống sai cách sẽ mắc bệnh nặng gọi là Bác nghĩa là đổ vỡ rơi rụng rất lớn. Ăn uống đúng cách thì có sinh khí mới. Sinh khí này kích thích cho việc xuất hồn vì tập trung khí từ huyệt này linh hồn sẽ bay ra khỏi huyệt Bách Hội bằng cách tụ khí ở huyệt này. Linh hồn bay ra tiếp xúc với các thần ở 4 cõi trời sắc giới. Sau khi chết sẽ sinh về một trong 4 cõi trời này.
12.        Giờ Hợi huyệt hội âm. Huyệt này ở giữa hậu môn và bộ máy sinh dục. Vì là quẻ Bát thuần khôn ăn uống đúng cách là nghĩa thuận nghĩa là thuận sinh khí thì khỏe mạnh. Ăn uống sai cách tà khí nhiễm vào có hai loại: Tà khí hư âm mắc bệnh dâm dục cuồng loạn. Tà khí hư dương mắc bệnh điên cuồng. Đó là cái nghĩa chữ nghịch của quẻ thuần Khôn biến thành hư âm. Nghịch là khí âm đi ngược lên đầu gọi là rối loạn luân xa sẽ sinh ra tai họa lớn.
Sự tương ứng ở các huyệt giờ Hợi, Giờ Tuất, giờ Dậu, Thân, Mùi, Ngọ, Tỵ ứng với 7 Luân xa sẽ có nguy hiểm như trên nói, nếu ăn sai cách.
Ăn uống đúng cách theo luật khai mở luân xa chân chính là phải ăn chay tuyệt đối. Vì ăn chay tuyệt đối mới đoạn tuyệt hẳn được tình dục mới đủ điều kiện sinh lên các cõi trời không có tình dục chính là 4 cõi trời từ sơ thiền đến tứ thiền sắc giới. Ăn sai cách sẽ mắc các bệnh như đã nói ở 7 giờ tương  ứng với 7 luân xa nói trên.
Riêng phép luyện rắn lửa Kun-đa-li-ni ở huyệt trường cường của đạo thờ thần lửa cũng rất nguy hiểm vì ăn sai cách sẽ sốt rất cao gọi là tẩu hỏa nhập ma nghiã là khí chân dương trong người bốc lên đầu ra hết bên ngoài từ huyệt Bách hội ở giữa đỉnh đầu. Lúc đó người lạnh giá như băng chết ngay lập tức. Có lúc thì hàn khí lạnh lẽo trong người tụ hết ở huyệt hội âm làm cho người đó cũng hóa thành chứng gọi là hàn ngộ hàn tắc tử: người lạnh như băng đờ đẫn không còn nhận biết được gì nữa. Đây là cái chết từ từ gọi là chết lâm sàng.
Sau này vào khoảng thế kỷ thứ 15 sau công nguyên đạo bà la môn thay đổi quy 3 ngôi thượng đế từ trước nói gọi là Ít-va-ra là nhất nguyên thượng đế. Hiện tượng này cũng như các ngoại đọa khác có trên thế giới hiện nay. Sau đó lại nói thượng đế ban cho cái khí tốt gọi là Pa-ra-na là nguồn sinh khí của thượng đế. Ai mở được luân xa thứ nhất cho đến luân xa thứ 7 đều tiếp thu được sinh khí này và lên thiên đường ở với thượng đế sau khi chết. Đến thế kỷ thứ 19 có hai người: 1 là ông Đại tá lục quân Mỹ tên là Ôn-cốt, 2 là bà kỹ sư cơ khí người Anh tên là A-lếch-xăng-đa-vít. Hai người này kết hợp với một thầy ba la môn ấn độ tên là Kít-si-na-mu-ti thành lập ra liên đoàn thông thiên học thế giới. Liên đoàn này trụ sở ở thủ đô Niu-đe-li Ấn độ. Gọi là thông thiên học nghĩa là luyện tập khai mở luân xatheo phép thu khí prana vào 7 luan xa khi thành công hiểu rõ việc trên trời, hiểu rõ ý trời nên gọi là thông thiên học.
Thông thiên học thực sự là một việc gán ghép hỗn độn lý thuyết này như sau:
1.    Đấng tạo hóa là chúa tể sinh ra vũ trụ, ban phát khí pa-ra-na cho tất cả mọi nơi, mọi loài.
2.    Đấng thái dương thượng đế theo lệnh của đấng tạo hóa cai quản một thái dương hệ
3.    Đấng Ngọc hoàng thượng đế cai quản loài người ở quả đất này.
4.    Đức Phật thích Ca mâu ni theo lệnh của 3 đấng trên truyền Phật giáo nguyên thủy ( Te ra va ra) cho mọi người
5.    Đấng đại tiên theo lệnh của 4 đấng trên đi truyền phép khai mở luân xa
6.    Các vị Bồ tát theo lệnh của 5 đấng trên giúp người khai mở luân xa
7.    Các vị chân tiên theo lệnh của 6 đấng trên giúp người khai mở luân xa
7 đấng này là 7 bậc của 7 tầng tiến hóa của tất cả các loài.
Do đó đây cũng là cách mà sau này các đạo ở đồng bằng sông cửu long xuất hiện cũng có cách nói gần giống như thế biến tướng thành cái gọi là tam giáo đồng nguyên. Sau đó thờ tất cả các vĩ nhân ở nhiều nước trên thế giới gọi là hòa đồng tôn giáo.
Những người này nói như những người theo Phật giáo nguyên thủy nghĩa là không cần ăn chay cứ ăn thịt uống rượu bình thường cũng mở được luân xa. Đó là sự sai lầm lớn vì làm cho loạn khí trong người. Sự loạn khí này nghĩa là làm cho khí âm hư đi từ huyệt hội âm lên đến huyệt bách hội trái với cái luật khí chân âm phải đi từ trên xuống dưới. Lại làm cho khí dương hư đi ngược từ trên đỉnh đầu xuống huyệt hội âm trái với cái luật khí chân dương phải đi từ dưới lên trên.
Khi cách đây hơn 4000 năm vua Phục hy làm ra tiên thiên bát quái, vua Thần nông định ra phép tắc phong thủy, Vua Hoàng đế định ra phép chữa bệnh cứu người thì ở sách Hoàng đế nội kinh tố vấn đã chỉ rõ khí dương đi từ dưới lên trên. KHí âm đi từ trên xuống dưới. Đây là cách luyện khí công đúng như kinh trung A hàm của tiểu thừa nói: Hít vào quán tưởng khí âm mát là chân âm đi từ đỉnh đầu xuống gan bàn chân. Khi thở ra quán tưởng khí dương ấm áp là chân dương đi từ gan bàn chân lên đến đỉnh đầu. Khoảng cách hít vào và thở ra nhịp nhàng đều đặn gọi là nhập chân âm mát cân bằng với xuất chân dương ấm. Khi khí âm đến huyệt hội âm thì chuyển sang huyệt trường cường đầu xương sống gần hậu môn gọi là khí âm mát chuyển hóa thành khí dương ấm. Lúc đó người tập nên co hậu môn lên bằng cách thóp bụng để giúp cho quá trình chuyển hóa này thành công. Trong khi hít vào thở ra luôn luôn để đầu lưỡi chạm hai hàm răng chạm nhau là để cho mạch khí dương gọi là mạch đốc lưu thông với mạch khí âm gọi là mạch nhâm. Âm dương thông suốt thì khí nào đi vào tạng ấy như khí màu trắng là khí dương đi vào phổi, khí màu đỏ là khí dương đi vào tim. Cả hai khí này đưa lên bộ óc làm cho người tỉnh táo sáng suốt. Khí màu xanh là khí âm đi vào gan mật. Khí màu vàng là khí âm đi vào dạ dày lá lách. Khí màu tím là khí âm đi vào hai quả thận. Lúc đó là lúc gọi là dẫn khí quy nguyên nghĩa là thận thuộc quẻ khảm rút đi cái hào giữa là hào dương đi lên tim là quẻ Ly. Hào dương này thay thế cho hào giữa của quẻ Ly là hào âm, ở tim. Như thế hào âm đi xuống thận thành hào giữa của quẻ khôn. Hào dương đi lên tim thành hào dương của quẻ càn. Vậy nhập âm xuất dương là cách dẫn khí quy nguyên biến thượng khí của quả tim từ quẻ Ly hóa thành quẻ Càn gọi là khí thượng thiên. Biến hạ khí của hai quả thận từ quẻ khảm hóa thành quẻ khôn gọi là khí hạ địa. Trên thiên dưới địa là thuận lý thượng dương hạ âm. Bất cứ ai dù luyện tập hay không luyện tập khí công thì khí vẫn vận hành theo quy luật này. Chỉ có chỗ khác nhau là người tập luyện khí công thì khỏe nhiều hơn, người không tập khí công nhưng ăn uống điều hòa thì khỏe ít hơn. Người ăn uống sai cách mà không tập luyện thì sức khỏe yếu. Các sư Tổ thường khuyên cứ nên hít thở theo cách hít vào sâu dài, thở ra nhanh. Hít vào bụng phình ra sau đó đưa khí lên ngực làm cho ngực nở ra, tiếp theo thóp bụng thở ra quán tưởng các khí độc trong người bị tống ra ngoài cho hết. Thế là cách thở đơn giản nhất thích hợp với nhiều người có trình độ cao thấp khác nhau. Từ cách này thiểu dục nghĩa là giảm bớt tình dục thì vẫn có khả năng sinh lên các cõi trời tứ thiền sắc giới là hữu lậu thiện của thế tục.
Sau đó nếu quy y tam bảo luyện tập khí công theo phép viên thông về tỵ căn của đức Phật thích ca dạy ông bàn đặc ca thì chữa được chứng đần độn hay quên sau đó sẽ đắc quả A la hán thoát khỏi kiếp luân hồi. Hoặc tu theo phép viên thông về tỵ thức của Đức Phật Thích Ca dạy ông Tôn đà la nan đà thì sẽ diệt trừ tâm tham muốn tình dục, lại quán hơi thở là hào quang màu trắng ra vào ở hai lỗ mũi. Hít vào quán tưởng mình và tất cả mọi vật xung quanh hóa thành vô tướng. Thở ra quán mình và mọi vật xung quanh hóa thành có tướng. Như thế các tướng liên tục là bất sinh bất diệt. Đồng thời cũng gọi là quán sắc tức thị không, không tức thị sắc như khế kinh Bát nhã tâm kinh và khế kinh đại bát nhã của biệt giáo Đại thừa dạy. Đó là con đường giản dị nhất chắc chắn nhất để minh tâm kiến tính hay trực chỉ nhân tâm kiến tính thành Phật. Đây là phép khí công khai mở lục thông chân chính tốt đẹp nhất vì có cơ sở chính là chân tâm bất sinh bất diệt làm chỗ y trụ tốt nhất. Như thế không bị tẩu hỏa nhập ma, không bị hàn ngộ hàn tắc tử chắc chắn sẽ siêu phàm nhập thánh đắc các đạo quả từ tiểu thừa cho đến tối thượng thừa. Vĩnh viễn thoát ly luân hồi đời đời giải thoát an vui. Sẽ nhận ra một điều chân lý là tất cả thần thông chân chính từ chân tâm hiện ra. Thần thông mê lầm là dựa vào các huyệt đạo luân xa của cái thân bất tịnh gây ra. Vì nguồn gốc bất tịnh cho nên kết quả là vô thường giả đối.
Khế kinh kim cương bát nhã ngày xưa được các sư Tổ thiền phái trúc lâm đời Trần giảng dạy cho các đệ tử đồng thời cũng làm đề thi cho các hội thi tiến sĩ chấm đến đệ nhất tiến sĩ là đỗ trạng nguyên ( Tổ đệ tam phái trúc lâm là Huyền quang chính là trạng nguyên Lý Tiến Đạo đời vua trần Nhân Tông). Khế kinh kim cương chỉ rõ lý tứ cú kệ là:
1.    Quán cái thân không thật có gọi là đệ nhất kệ thân không.
2.    Quán cái tâm bất khả đắc gọi là đệ nhị kệ tâm không
3.    Quán cái ngã do thân tâm giả dối tạo thành gọi là đệ tam kệ ngã tướng không
4.    Quán các pháp 7 đại hình tướng tạo thành cái ngã của chúng sinh và hình tướng của thế giới chúng sinh đang sinh sống ở đó gọi là đệ tứ kệ pháp tướng không.
Từ bốn cái không tướng này xả được cái chấp bốn tướng đó sẽ nhập bản tính vô vi. Do đó khế kinh kim cương bát nhã nói các bậc thánh hiền đại thừa tùy theo vô vi mà tu đắc khác nhau. Sau đó là quy về vô thượng chính đẳng chính giác tức là thành Phật. Vô vi là pháp bất sinh bất diệt chính là Phật tính thường trụ. Chính là thanh tịnh pháp thân. Chính là bản thể chân không. Đây cũng gọi là Chân Như nghĩa là chân thật không hề biến đổi. Con đường chân chính này là tương lai tươi sáng của tất cả chúng sinh nên chọn và nên thực hành mãi mãi.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét