Thứ Năm, 19 tháng 4, 2012

Luận về năm tháng ngày giờ theo Phong Thủy


      Hiện nay còn lưu truyền một số phép xem ngày tháng năm và giờ tốt tiêu biểu như sau: Phép Ngũ Linh, Mai hoa dịch số, Tứ đại cát thời, Hoàng Đạo,Lục Độn, Bát Môn, Quỷ Cốc Tử độn toán...
- Phép Ngũ Linh dựa vào việc xác lập quẻ đơn hậu thiên theo năm tháng ngày giờ theo nguyên tắc " Nguyệt thuận hạ nhật, nhật thuận hạ thời" với quẻ đơn tiên thiên dựa vào ngũ hành của giờ lấy quẻ và Thập thiên tinh (Bồng, Nhuế, Xung, Phụ, Cầm, Tâm, Trụ, Nhâm, Anh, Không) kết hợp với địa bàn để lập nên quẻ kép. Sau đó luận cát hung theo Kinh Dịch.
- Mai hoa dịch số dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày (âm lịch) để xác định thượng quái (hay ngoại quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hạ quái (hay nội quái); dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ (âm lịch) để xác định hào động.
Dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ sinh (theo âm lịch) lập quẻ để xem mệnh vận đời người; dùng số chi năm, số của tháng, số của ngày, số chi giờ xem đoán (theo âm lịch) lập quẻ để xem đoán về sự việc, hiện tượng.
- Lục Độn là phép xem ngày theo Lục diệu dựa trên cơ sở số 6 (lục) là số thành đầu tiên của dãy số thành ( 6,7,8,9,10) từ 5 số sinh là 1,2,3,4,5 trong Hà Đồ. Số 6 dùng để chỉ 6 "thần ngày", trong đó có hai thần ngày được coi là tốt hơn là : Đại An, Tiểu Cát tiếp đến là Tốc hỷ, Xích khẩu, Lưu niên và Không vong. Phương pháp này gọi là Độn Lục Nhâm đơn giải để tìm ngày tốt ngày xấu, xuất hiện từ đời Bắc Tống (960-1127 Trung Hoa).
- Quỷ Cốc Tử độn toán là phép xem ngày giờ của Ngài Quỷ CốcTử là Thầy của Tôn Tẫn và Bàng Quyên. Phép xem ngày giờ tốt này theo Tam thần - Tứ tướng và Mệnh-Trọng-Quý.
 
   Như vậy phép xem ngày giờ tốt lưu truyền từ xưa đến nay đã được nhiều người ở nhiều đời khác nhau công nhận là có sự linh nghiệm khi dự báo sự việc bao gồm Thiên Văn, Địa Lý, Nhân Sự. Các phép xem tốt xấu kể trên rất phức tạp và khó hiểu !!! Nhưng có một sự thống nhất chung về thuyết âm dương ngũ hành. Theo các vị cao minh mà Quảng Kiến có điều kiện tham vấn thì điều mấu chốt cơ bản nhất là tính Ngũ Hành của năm tháng ngày giờ làm việc hợp với tuổi của chúng ta (chủ thể, chủ nhà, chủ đất). Tất cả những phép tính khác đều có ý nghĩa bổ sung tăng thêm cái hay cái tốt chứ không phải là ý nghĩa quyết định.
      Tất cả mọi người đều có tuổi Ngũ hành riêng. Cho dù không nhớ được tuổi thì mọi việc tốt xấu vẫn theo tuổi ngũ hành dù có quên chăng nữa vẫn cứ diễn ra. Do đó không bao giờ có cái năm tháng ngày giờ xấu cho tất cả mọi người. Vì năm tháng ngày giờ có tính ngũ hành cụ thể, không có hành nào lại tiêu diệt được tất cả các hành vậy không thể có những ngày xấu toàn bộ như Thập ác đại bại, tứ thời đại sát…vì nói như thế chẳng khác gì một hành Thủy có thể tiêu diệt được bốn hành là Mộc, Hỏa, Thổ, Kim. Ngược lại cũng không thể có một cái ngày có tính cách làm cho sinh nở ra tất cả như một thượng đế sinh ra tất cả mọi loài thì không bao giờ có cái thượng đế đó. Cũng vì thượng đế đó không thể sinh ra tốt xấu trái nhau để làm hại lẫn nhau. Ví dụ như có thuyết nói ngày giờ được đức Ngọc hoàng đại đế ban ơn thì cái ơn này cũng chỉ ban cho người làm việc thiện chứ không ban cho tất cả mọi người vì trong số đó có một số kẻ độc ác.
       Lại có những trường hợp nói có sao tốt mọi việc là đúng nhưng phải hiểu những việc này là việc thiện, không bao giờ các sao thiên thần đó lại phù trì cho những kẻ chuyên đi làm việc ác. Những sao tốt mọi việc là cách xem giúp cho những người không nhớ được chính mình là tuổi gì có hành gì. Những người này làm việc thiện nhiều thì được phù hộ nhiều, ít thì được phù hộ ít, không làm việc thiện thì không được phù trì. Ngược lại làm việc ác thì nạn nhân sẽ là người bị trừng trị vì đã gây tội ác. Những kẻ quá độc ác thì sẽ bị các thiên thần trừng trị như chúng bị sét đánh chết. Nhưng lúc chết cũng tương ứng với quả báo của chúng. Nếu chưa đủ thời gian chịu quả báo thì dù bọn chúng có làm chuyện ác chúng vẫn chưa bị đánh chết. Cho nên chớ nói tại sao kẻ đó ác thế mà không bị các Thần đánh chết ngay. Vì nói như thế là không hiểu gì về luật nhân quả. (xem bài NHÂN - QUẢ)
            Những sao Thiên thần tốt mọi việc có rất nhiều. Những sao thiên thần ác như La Hầu, Kế Đô cũng rất thông minh. Không bao giờ hai sao này lại đánh người làm việc thiện vì các vị này dù là dòng giống A Tu La nhưng cũng rất hiểu luật nhân quả của Đức Phật dạy. Do đó có những người gặp La Hầu Kế Đô mà vẫn khá giả. Điều đó chứng minh luật nhân quả là đúng.
            Lại có sách nói có những sao chỉ làm được việc này không làm được việc kia. Đây là điều vô lý vì không bao giờ các thiên thần lại cấm làm việc bình thường như làm nhà, cưới hỏi là những việc không phải là việc ác như Sát Đạo Dâm Vọng. Do đó không hề có chuyện sao này làm được nhà nhưng lại không làm được việc kinh doanh…
            Lại có những sách của kẻ tà đạo viết xuyên tạc nói là có sao Thiên tặc, Địa tặc. Đây là sự báng nhạo trắng trợn vì các thiên thần không bao giờ là giặc (Thiên tặc). Các địa thần không bao giờ là giặc (Địa tặc).
            Lại nói có sao Thiên Hỏa là sao gây sự cháy nổ. Không bao giờ các Thiên Thần lại vô cớ gây ra việc này với tất cả mọi người vì kiêng ngày đó tức là đã phỉ báng thiên thần coi thiên thần là kẻ gây ra việc đốt phá. Sao Địa Hỏa là các địa Thần cũng như thế nghĩa là không hề gây ra sự cháy nổ một cách vô cớ.
            Tất cả những luận điệu xuyên tạc đó đã có từ lâu đời. Kể từ khi Suy vưu là kẻ chống lại Vua Hoàng đế cách đây 5000 năm đã bịa ra những chuyện đó. Vua Hoàng đế là người làm ra sách chữa bệnh đông y. Tên Suy Vưu đã xuyên tạc làm ra các sách giả nói trên để bôi nhọ Vua Hoàng đế. Sau này đời Hán có giặc khăn vàng. Đời Đường có bọn đạo sĩ ác như Triệu Quy Chân, đời Tống có bọn gian thần như Tần Cối… Chính bọn chúng đã cho tay sai đem những cái sai lầm đó viết lẫn lộn vào các sách xem ngày giờ tốt xấu để lừa mọi người cho đến ngày nay vẫn còn dư sót lại.
            Cách tính năm tốt chung cho mọi người cũng chia làm hai nhóm Đông Tây Trạch. Năm tốt cho nhóm này thì bình thường cho nhóm kia. Cách tính này lùi liên tục từ số 9 đến số 1 rất nhiều năm. Các số 1 (Khảm) 3 (Chấn) 4 (Tốn) 9 ( Ly) là bốn số Đông trạch của năm sẽ hợp với những người tuổi Đông trạch. Các số 2 (Khôn) 6 (Càn) 7 (đoài) 8 ( Cấn) là bốn số Tây trạch của năm sẽ hợp với những người tuổi Tây Trạch.
            Cách tính thứ 2 là tính theo người Ấn Độ là tính cửu diệu tinh quân từ La Hầu cho đến Thủy Diệu. Đây cũng là cách tính riêng cho Nam và Nữ tốt xấu từng năm.
            Cách tính tháng tốt vẫn là ngũ hành của hoa giáp từng tháng. Tương sinh với tuổi hoa giáp có ngũ hành gì là tốt nhất. Tương khắc là xấu nhất. Cùng ngũ hành là trung bình. Cách tính ngày giờ cũng tương tự như thế.
            Còn cách tính ngày tốt chung cho người làm việc Thiện và giờ tốt chung cho người làm việc thiện thì cũng theo tương sinh tương khắc ngũ hành là đúng nhất. Nếu không nhớ rõ tuổi có hành gì lúc đó mới phải xem sao tốt chung cho việc thiện chính đáng như sau:
1.     Sao Thiên Đức
2.     Sao Thiên Thành
3.     Sao Thiên Giải
4.     Sao Thiên Y
5.     Sao Thiên Hỷ
6.     Sao Thiên Phú
7.     Sao Thiên Khôi
8.     Sao Thiên Việt
9.     Sao Thiên Quan
10.  Sao Thiên Quý
Các sao khác như: Bách Sự Cát Tường ( Đại Minh), Đại Cát Tường, Giải Thần, Lục Hợp, Trường Sinh, Thiên Xung, Thiên mã, Nguyệt Đức.
Xem giờ tốt cho việc làm chính đáng cũng có sao Thiên Khôi, Thiên Việt, Thiên Xung, Trường Sinh.
Trường hợp đặc biệt có 2 sao báo hiệu làm việc bị chậm thời gian là sao Triệt, Không và sao Tuần Không.
Quảng Kiến-Nguyễn Việt Hồng
...( Còn tiếp)...

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét