Chư pháp thật tướng gồm tính tướng thể dụng. Tướng cộng với
tính là Thể, thể có Lực tạo ra Tác dụng có Quả Báo. Tất cả đều có nguyên Nhân.
Quá trình như thế gọi là Duyên... Trùng trùng như vậy là điều kiện giúp cho một
sự vật mới xuất hiện và chuyển biến, Đạo Phật gọi đó là tính bản nhiên của pháp
giới, là luật Nhân Quả.
Nhân duyên người bạn
hỏi về góc nhìn nhân quả tu hành thông qua lá số tử vi. Nay thuận theo pháp thế
gian, cùng bàn về phương diện lý số. Lâu nay chúng tôi có học được phép xem căn
cơ tu hành truyền lại của Tổ sư Thiện Vô Uý Đường Tam Tạng, ngài là người đầu
tiên truyền mật tông vào Trung Quốc. Sau khi nghiên cứu về kinh dịch, tử vi, Tổ
sư kết hợp với phép thiên văn của Ấn độ cổ mà chế ra pháp gọi là " tuyển
tăng đồ" để phương tiện làm căn cứ cho việc dự đoán nhân duyên tu hành thuận
nghịch của người đời. Phép này căn cứ vào ngày tháng năm sinh và giờ sinh cụ thể
mà an liên tiến trên 12 cung địa chi từ cung Tý đến cung Hợi, cụ thể từ sao
Thiên Quý, Thiên Ách, Thiên Quyền... Đến sao Thiên thọ. Các sao dự báo tốt có,
dự báo xấu có 6. Xét về căn cơ tu hành thì người nào có nhiều sao tốt quá hay xấu
quá thời khó tu, những sao không xấu không tốt như Thiên Cô, Thiên Di... thì dễ
tu hơn, đây cũng là cái lý trung đạo nhà Phật. Còn những người sao xấu như
Thiên Ách, Thiên Nan... muốn tu thì phải rất cố gắng để vượt các chướng ngại thế
gian. Những người nhiều sao tốt báo hiệu sự sung túc đầy đủ ở thế gian có sao
Thiên Quyền, Thiên Nghệ... muốn tu xuất thế gian thời phải có tâm xả bỏ. Đặc biệt,
đối với những người có ít căn duyên tu hành nếu phát tâm kiên cố thì cái khổ
cái sướng về mặt thế gian đó lại chính là Tăng thượng duyên rất tốt giúp cho
Chính nhân sớm thành Chính Quả. Như vậy sự tu chứng cốt lõi vẫn là ở cái tâm
giác ngộ mà tinh tiến trong đời hiện tại.
Việc thông hiểu các
pháp môn thế gian về toán số cũng chỉ là phương tiện thuộc Công xảo minh trong
Ngũ Minh.
Về tử vi lý số là
pháp thế gian nói về phép dự đoán tương lai của con người thông qua ý nghĩa của
108 sao, an vị căn cứ theo ngày tháng năm sinh cụ thể của mỗi người. Cấu trúc của
một lá sô tử vi gồm 12 cung, từ cung mệnh đến cung huynh đệ. 12 cung này cũng
theo luật bát quái ngũ hành mà có. Tử vi, tướng số đều theo 16 đức và hư đức của
8 quẻ bát quái mà biểu hiện tốt xấu.
Các vị hành tướng
pháp thường nói " vô tướng, hữu tâm. Tướng tuỳ tâm sinh. Hữu tướng, vô
tâm. Tướng tuỳ tâm diệt". Nghĩa là: tướng xấu nhưng tâm thiện thì tướng tốt
theo tâm thiện đó mà sinh. Có tướng tốt nhưng ác tâm thì tướng theo ác tâm mà xấu.
Môn tử vi thuộc phép Lý Số, trong đó Số gồm số
ngày, tháng, năm sinh, giờ sinh. Các số này là số không đổi chứ không phải là số
mệnh con người không đổi. Lý là nghĩa lý của con người, đó là các giá trị sống,
nếu sống theo nghĩa lý đó thì cuộc sống từ vật chất đến tinh thần sẽ được mọi bề
tốt đẹp. Mà mọi sự trọn vẹn thì cái Lý đã quyết định được cái Số.
Lý là nói về nghĩa
lý, con người ta sinh ra cần phải phải sống cho hợp với luân lý để làm nhân làm
duyên từ thế gian xuất thế gian. Bàn về hai chữ luân lý, chữ " luân"
có nghĩa là trật tự, luân lý là nghĩa lý hay nguyên tắc sống, là trật tự làm
cho xã hội con người được ổn định phát triển, trên dưới, lớn bé rõ ràng không lộn
xộn. Như Bậc Cha Mẹ đối với con cái theo chữ từ, con với cha mẹ theo chữ hiếu,
anh phải thuận, em phải kính, vợ chồng phải hoà... gọi là ngũ thường.
Chúng ta sinh ra và phát triển có đầy đủ tính cách, các đức
tính này không tự nhiên có, mà do sự huân tập từ lâu đời. Theo luật nhân quả
luân hồi, những người nào có nhiều đời nhiều kiếp thường thực hành hạnh phóng
sinh và giữ giới bất sát sinh thì đời này được Nhân đức thể hiện ở tướng hình
là cằm trên mặt được tròn hơi vuông, hồng, sáng, cao. Cuộc sống thế gian được
thuận lợi. Lễ đức là do nhiều đời kiếp trước đã giữ giới chung thuỷ trong quan
hệ vợ chồng, bạn bè, cha mẹ, con cháu, giữ trọn vẹn giới bất tà dâm, một trong
ngũ giới. Nghĩa đức là nhiều đời trước đã thường hay cúng dàng và làm việc bố
thí, lại giữ giới bất thâu đạo. Tín đức là do nhiều đời kiếp trước đã nói lời
thật thà, giữ giới bất vọng ngữ...Nhân, Lễ ,Nghĩa, Trí, Tín này gọi là ngũ đức.
Các đức tính này sẽ thể hiện ở tướng hình và trong lá số tử vi của mỗi người.
Như: cung bản mệnh có sao báo hiệu xấu quẻ Càn là có bệnh về óc, dây thần kinh,
tính tình kiêu ngạo, có thể có ác kiến ( thân kiến, biên kiến, kiến thủ kiến,
giới cấm thủ kiến, tà kiến ). Đây là ngược lại với quẻ Càn chân kim chữ Kiện (
Khoẻ ) là chữ Nhược hư kim là yếu. Ba sao đó là: Địa kiếp, Kình dương, Đà la.
Ba sao quẻ Đoài báo hiệu xấu gây nên sự buồn rầu (ai) ngược lại với chân Kim của
quẻ Đoài là chữ Duyệt ( vui). Gây nên bệnh về loing tóc, viêm xoang, viêm phổi.
Ba sao đó là: Kiếp sát, Đại Hao, Điếu khách...
Ví dụ cụ thể lá số cung mệnh có sao: Ân quang, Thiên không,
Đào hoa, phá toái. Luận theo thật đức và hư đức của các sao về bệnh tật có dự
báo như sau: Ân quang thuộc Hoả tại Dậu kim là bình địa có nghĩa là được ân huệ,
giúp đỡ của người trên. Sao Thiên Không báo hiệu tai hoạ về gió và nước với những
người làm việc ác. Sao Đào Hoa là sự tốt đẹp khi được các thuên thần cứu giúp,
sự được người khác giới yêu mến. Sao Phá toái thuộc quẻ Dương Mộc quẻ Chấn báo
hiệu sự mắc các bệnh về mật, bệnh viêm họng.
Như vậy việc xem
tướng hình hay lá số tử vi chính là việc xem dự báo cái quả đời này từ cái nhân
của các đời kiếp trước ( biệt nghiệp ). Nhiều người sai lầm coi tử vi từ lá số
đã quyết định sướng khổ, lợi này hoạ nọ là không đổi. Hiểu như thế là sai, cũng
như thấy: Nhà bác học thường hay đãng trí, lại nhầm lẫn mà quyết định rằng: những
người lãng trí là bác học!!!. Cái lẫn đó bởi họ chưa hiểu biết về luật nhân quả,
hạt giống xấu nhưng chăm bón tốt thì sẽ ra quả tốt hơn hạt giống tốt mà ko chăm
bón.
Khi bàn tới luật nhân quả luân hồi. Có người hỏi, đời người
có khi làm thiện có khi làm ác, lẫn lộn các nghiệp như thế thì biết theo nghiệp
nào để đầu thai?. Về phần có ảnh hưởng đầu thai có thể chia theo thứ tự nghiệp
nhân ra làm bốn món là: 1- Cực trọng nghiệp: trong đời có làm một nghiệp lành
hay nghiệp dữ to tát lớn lao, thời phải đầu thai theo nghiệp đó. 2- Cận tử nghiệp: xu hướng nghiệp làmh hay dữ
giai đoạn gần chết, 3- Tập quán nghiệp: nghiệp theo thói quen hàng ngày ưa việc
chi, làm việc chi, xu hướng theo đó mà đầu thai, 4- Tích luỹ nghiệp: tức là
nghiệp đời trước để lại.
Phép tử vi lý số
chỉ dự đoán được phần nào về nghiệp nhân chứ khó nói hết về quả báo. Bởi giống
nghiệp đời trước có thể được bồi bổ cho lớn thêm hay bị tiêu diệt đi ở việc làm
lành hay làm dữ trong đời hiện tại. Đó là chỗ thọ báo không nhất định, điều này
bác đi cái luận thuyết cho rằng số con người là ko đổi đã an bài. Hiểu như vậy
là rơi vào thuyết ngoại đạo ( thường
kiến thượng đế và đoạn diệt kiến).
Các thiên tinh (
sao tử vi) chiếu tại các cung tử vi được coi là dự báo biệt nghiệp. Biệt nghiệp
là quả báo đã gây ra từ trước. Để biết được tử vi tốt xấu và nguyên nhân của sự
tốt xấu đó, chúng ta cần phải hiểu đúng về nghiệp, để từ đó mà điều chỉnh thói
quen giúp chuyển nghiệp xấu thành nghiệp tốt.
Bàn về Nghiệp:
Nói về phạm vi của
nghiệp thì rất to lớn, trời đất cỏ cây muôn loài đều do nghiệp sinh ra, đều
theo nghiệp mà chuyển biến. Ăn cũng nghiệp, thất tình, lục dục, tam cương, ngũ
thường, thời gian từ vô thuỷ cho tới vô chung, không gian từ vô biên vi tế cho
tới vi trần, cái gì cũng tự nghiệp mình sinh ra. Năng lực của nghiệp to tát như
vậy, mà thật ra nghiệp không phải tự có, không tự có mà có, là vì tâm mình còn
mê. Tâm chúng ta vốn thanh tịnh, tuy hiện ra vạn thức mà vẫn một thể chân như,
vì ko biết chân như mà sinh ra manh tâm ( bất giác ) chia bờ rẽ bạn, có thân
sơ, nhân ngã. Đã manh tâm thì có nghiệp, mà có nghiệp thì muôn vật hiện ra đó cả.
Chân tâm vốn thanh tịnh, manh tâm ra thì Chân tâm biến thành tạng thức. Tạng thức
là cái kho chứa, chúng ta có suy nghĩ, có hành động thời cái giống nghiệp ấy chất
chứa vào trong tạng thức. ( tạng là chứa, thức là tính biết). Cái kho vô tận
này ta chứa vàng thì được vàng chứa thóc thì được thóc. Cho nên ở đời làm ác
thì hưởng lại cái ác, hành thiện thì được an vui, đều cũng từ tạng thức huân tập
và phát khởi. Mê thì tâm biến thành tạng thức, ngộ thì tạng thức là Tâm. Tâm
cũng như gương, ác như bụi, lành như nước, dội vào thì gương sáng, đeo bụi mãi
thì mờ, gương sáng thì bóng được rõ ràng, gương tối thì bóng phải ám. Từ chư
thiên cho tới địa ngục, vẫn là một tâm, tâm sáng láng thì cảnh giới tươi đẹp,
tâm lờ mờ thì cảnh giới khổ não, tuy không ai thưởng phạt mà tựu chung vẫn có
thưởng phạt rõ ràng.
Tóm lại, cái lá số
tử vi có tốt hay không tốt cũng là dự báo phần nào của biệt NGHIỆP. Mà đời này
của chúng ta muốn có vui nhiều buồn ít, có sướng không có khổ thời phải xem ở
cách chúng ta xử lý cái nghiệp thế nào, huân tập thiện ác vào tạng thức ra sao.
Như Kinh Lăng Nghiêm có câu: " Nhất nhân phát chân quy nguyên, thập phương
thế giới tận thành tiêu vẫn", hễ ngộ được tâm rồi thì chi chi cũng là tâm,
còn đâu mà sắc mà không, còn đâu mà thập phương, mà thế giới. Mà để ngộ được
tâm chúng ta phải phát tâm tinh tiến tu theo các pháp môn của chư Phật chỉ bày
để chứng được cái bản tâm vốn có, Ngộ như vậy thì ba nghiệp dứt sạch, nghiệp dứt
thì hết khổ, bốn đức từ bi hỉ xả hiện tiền.
Chon nên:
Không chỗ đến đi không chốn về
Đạo đâu có "hữu" để tung hê
Ngày ngày chính niệm thường tinh tiến
Chưa được Pháp-Thân cũng Bồ-Đề.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét